Thứ Hai, 2 tháng 4, 2012

Rơi xuống Hang-thỏ


Alice đã bắt đầu cảm thấy rất mệt mỏi khi phải ngồi cạnh bà chị bên bờ sông, chẳng có cái gì để mà làm. Thỉnh thoảng cô bé lại nhóng lên ngó vào cuốn sách mà chị mình đang đọc, nhưng chẳng hề có một bức tranh hay một đoạn nói chuyện nào trong đó hết, “và một cuốn sách thì có hay hớm gì,” Alice nghĩ, “khi không có tranh vẽ hay một đoạn đối thoại nào cơ chứ?” 

Thế nên cô bé đang bắt đầu cân nhắc thầm trong đầu mình (một cách rất cố gắng, bởi ánh nắng nóng đang khiến cô bé cảm thấy buồn ngủ và mụ cả người đi), là liệu niềm vui thích khi làm được một cái vòng hoa cúc[1] có bõ cái công phải dậy sớm và đi hái cúc hay không, thì bỗng nhiên một chú Thỏ Trắng với một đôi mắt hồng chạy vụt qua cô. 



Không có gì thực sự là ấn tượng trong cái cảnh đó hết, cũng như là Alice thấy chẳng có gì quá sức là quái lạ khi nghe chú Thỏ đó tự nói với mình, “Ôi trời, ôi trời! Mình sẽ muộn mất thôi!” (sau này khi đã nghĩ lại, cô bé nhận ra là mình nên thắc mắc ngay mới phải, nhưng chẳng hiểu sao vào lúc đó trông nó lại rất tự nhiên). Nhưng đến khi chú Thỏ đó thực sự móc ra một chiếc đồng hồ từ trong túi áo vét, và ngó xuống nhìn giờ, rồi vội vã bỏ đi mất; Alice liền đứng bật dậy đuổi theo, bởi cô bé chợt nhớ ra là mình chưa từng có bao giờ được trông thấy một chú thỏ nào mặc áo vét có túi, hay có một cái đồng hồ bỏ trong túi đó để mà móc ra xem giờ. Tràn đầy tò mò, cô bé chạy đuổi theo con thỏ ngang qua cánh đồng vắng, và may mắn thay, vừa kịp lúc để thấy nó nhảy tọt xuống một cái hang thỏ rất lớn, ngay kế bên một bụi cây to. 

Ngay lập tức Alice nhảy xuống theo nó, chẳng hề có chút băn khoăn nào về chuyện sau này mình sẽ thoát ra khỏi chỗ đó kiểu gì. 

Cái hang thỏ lúc đầu mở thẳng ra phía trước như một đoạn đường hầm, rồi bất thình lình lao một mạch xuống dưới rất nhanh, nhanh đến nỗi Alice còn không kịp có lấy một tích tắc để dừng mình lại thì đã thấy mình đang rơi thẳng xuống một miệng giếng sâu hun hút rồi. 

Hẳn là cái giếng đó phải cực kỳ sâu, hoặc là Alice đã rơi cực kỳ chậm, bởi cô bé đã có khối thời gian để nhìn ngó xung quanh và thắc mắc chuyện gì sẽ xảy đến với mình tiếp đây. Trước tiên, cô bé thử nhìn xuống dưới và cố gắng xác định xem mình đang sắp sửa rơi xuống đâu, nhưng tối quá nên chẳng thấy được gì hết; và rồi cô bé ngó sang hai bên, và nhận ra khắp mọi chỗ xung quanh mình là đầy nhóc đủ các loại tủ chén và giá sách; đó đây lại còn thấy những bức tranh hay những tấm bản đồ cũ mắc trên dây bởi những cái kẹp quần áo gỗ. Alice nhón lấy một cái lọ thủy tinh khi cô bé rơi ngang qua một cái giá sách, trên nhãn của cái lọ có ghi là “MỨT CAM”, nhưng tiếc thay là chẳng có gì bên trong cả. Không dám thả cái lọ xuống vì sợ sẽ rớt trúng phải ai đó bên dưới, thế nên cô bé đã xoay sở để nhét cái lọ vào trong một cái tủ chén khi nó bay vụt qua. 

“Úi chà!” Alice nghĩ, “sau một cú rơi như thế này thì chẳng sợ gì cái chuyện ngã cầu thang nữa nhé! Mọi người ở nhà sẽ nghĩ mình dũng cảm biết bao! Mình sẽ không nói cho ai biết về cái chuyện này hết, dẫu cho mình có ngã xuống từ tận mái nhà đi chăng nữa!” 

Rơi, rơi, rơi. Có cảm giác như cú rơi này sẽ mãi mãi không bao giờ kết thúc ấy! “Không biết mình đã rơi xuống được bao nhiêu dặm rồi?” cô bé nói to. “Chắc hẳn cũng đã đến đâu đó gần tâm Trái Đất rồi ấy nhỉ? Để xem nào, thế thì cũng phải đến bốn nghìn dặm đấy… (thì vì, các bạn biết đấy, Alice cũng đã được học một chút về mấy thứ thế này ở trường rồi, và dù cho đây không thực sự là một cơ hội tốt cho lắm để phô trương kiến thức của mình, bởi không có ai ở xung quanh để mà nghe cô bé nói hết, thì nhẩm lại cho nhớ thế này cũng là một cách luyện tập rất tốt. “- phải, cũng phải đến một khoảng như thế - nhưng nếu thế thì không biết liệu mình sẽ rơi đến Longitude hay Latitude đây?” (Alice chẳng hề có khái niệm nào về việc Longitude là cái chỗ nào, hay Latitude ở đâu, nhưng thấy rằng những từ này khi nói ra nghe rất là hoành tráng). 

Giờ cô bé lại bắt đầu nói tiếp, “Không biết có thể nào mình sẽ rơi xuyên qua cả Trái Đất hay không nhỉ? Sẽ thú làm sao nếu mình rơi thẳng được tới những xứ ở bên kia quả địa cầu, nơi ai ai cũng đi lộn ngược đầu xuống đất! ‘Ác cảm’ à, mình đoán vậy? - (lần này thì cô bé thực sự mừng là KHÔNG có ai đang nghe cô nói, bởi cái từ này nghe sao có vẻ không đúng cho lắm) - nhưng thế thì mình sẽ phải hỏi người ta tên nước đó là gì. Xin làm ơn cho hỏi, thưa quý bà, chốn đây là Australia hay là New Zealand? (và cô bé còn khẽ vén váy lên và nhún gối cúi chào nữa, cho thêm phần quý phái lịch sự - vén váy và nhún gối, trong lúc vẫn đang rơi!) “Nhưng họ sẽ nghĩ mình là một đứa ngớ ngẩn biết bao, khi đến cả cái điều đó mà cũng phải hỏi! Không, hỏi không có tác dụng; có lẽ mình sẽ trông thấy cái tên nước được viết ở đâu đó.” 

Rơi, rơi, rơi. Chẳng có gì để mà làm cả, vậy nên chẳng mấy chốc Alice lại tự nói chuyện với mình. “Mình đoán Dinah tối nay chắc sẽ nhớ mình lắm đây!” (Dinah là tên con mèo của cô bé.) Mình hy vọng là mọi người vẫn nhớ đến đĩa sữa của nó vào bữa trà chiều. Ôi Dinah của chị ơi! Ước gì có em ở dưới đây với chị nhỉ! Chị e là giữa lưng chừng không thế này thì không có chuột rồi, nhưng em cũng có thể bắt một con dơi, nó cũng giống chuột lắm đó. Nhưng không biết liệu mèo có ăn dơi không?” Đến đây Alice bắt đầu thấy khá là buồn ngủ, và cứ thế cô bé mơ màng tự lẩm nhẩm với bản thân “Liệu mèo có ăn dơi không? Liệu mèo có ăn dơi không?”, và cứ thỉnh thoảng, lại “Liệu mèo có ăn dơi không?”; vì, các bạn thấy đấy, đằng nào thì cô bé cũng đâu có biết câu trả lời, thế nên có nói kiểu gì thì cũng đâu có quan trọng. Rồi Alice cảm thấy mình đang bắt đầu thiu thiu ngủ, và bắt đầu mơ thấy mình đang đi rảo bước, tay nắm tay với mèo Dinah, và hỏi nó một cách rất nghiêm túc: “Giờ, Dinah, hãy nói cho chị nghe sự thực: em đã bao giờ ăn một con dơi nào chưa?” thì bất ngờ bụp! bụp! Cô bé lao thẳng xuống một đống lá khô và cành cây; cú rơi cuối cùng đã chấm dứt. 

Alice chẳng hề bị thương chỗ nào hết, và cô bé nhảy lên đứng dậy được ngay. Cô bé nhìn thử lên trên, nhưng chỉ thấy một đám tối mù mịt, không trông ra được gì hết. Trước mặt cô bé là một cái hành lang dài, và con Thỏ kỳ lạ vẫn còn đang ở trong tầm mắt, thoăn thoắt chạy dọc theo dãy hành lang. Không thể phí phạm một giây nào hết, Alice vội phóng vọt tới như bay, và chỉ vừa kịp lúc để nghe nó nói, ngay khi nó đến một khúc rẽ, “Ôi râu ôi tai, đã muộn đến thế này rồi ư?” Cô bé bám theo nó sát nút, nhưng chỉ vừa qua khúc rẽ là thoắt cái đã không thấy nó đâu nữa; và cô bé thấy mình đang ở trong một cái hành lang dài, rất dài, được thắp sáng bởi một hàng những chiếc đèn treo lơ lửng buông xuống từ trên trần. 

Khắp cái hành lang đó là đầy những cánh cửa, nhưng tất cả chúng đều đã bị khóa trái hết, và khi Alice đã chạy hết từ bên này sang bên kia, cố gắng thử mở từng cánh một nhưng đều thất bại, cô bé buồn bã bước về phía giữa nhà, tự hỏi không biết mình sẽ trở về được kiểu gì đây. 

Bất ngờ cô bé trông thấy một cái bàn ba chân nhỏ, làm hoàn toàn từ thủy tinh; trên mặt bàn hoàn toàn không có thứ gì hết ngoại trừ một chiếc chìa khóa nhỏ bằng vàng; và ý nghĩ đầu tiên của Alice là nó có thể là chìa khóa để mở một trong những cánh cửa trong hành lang, nhưng, hỡi ôi! Hoặc là những cánh cửa đó quá lớn, hoặc là chiếc chìa khóa kia quá nhỏ, nhưng đường nào thì cũng vậy, nó chẳng thể mở được cánh cửa nào hết. Tuy nhiên, khi bước dọc theo dãy hành lang lần thứ hai, Alice bắt gặp một tấm rèm treo thấp mà ban nãy cô bé không để ý tới; đằng sau nó là một cánh cửa nhỏ xíu, cao chỉ độ ba mươi phân. Cô bé tra thử chiếc chìa khóa vàng vào đó, và mừng thay, nó tra vào vừa khít lỗ khóa! 



Alice mở cánh cửa và phát hiện ra nó dẫn vào một lối đi nhỏ, không lớn hơn một cái hang chuột là bao; cô bé quỳ xuống ngó qua khung cửa, và trông thấy một khu vườn đẹp nhất, tuyệt vời nhất mà cô bé từng được thấy. Cô bé mới muốn được ra khỏi cái hành lang tối hù này, được dạo bước giữa những luống hoa bên những dòng suối mát lành kia biết bao; nhưng cô bé thậm chí còn không nhét vừa đầu mình qua khung cửa nữa. “Và thậm chí nếu đầu mình có qua được cái lỗ cửa đó,” Alice tội nghiệp thầm nghĩ, “nó cũng sẽ chẳng có ích gì nếu đôi vai mình không vào theo được. Ôi, ước gì mình có thể rút gọn cơ thể lại như một cái ống nhòm[2] nhỉ!? Mình nghĩ là nếu cố chắc cũng làm được đấy, chỉ có điều giá mà mình biết nên bắt đầu thế nào đây?” Vì, các bạn thấy đấy, có quá nhiều điều kỳ quái vừa mới xảy ra liền tù tì ngay trước mắt, đến độ Alice đã bắt đầu thấy rằng chẳng có mấy thứ trên đời này lại là chuyện không thể cả. 

Vì thấy cứ ngồi đợi bên cánh cửa cũng chẳng giải quyết được vấn đề gì hết, cô bé trở lại chỗ cái bàn, với chút hy vọng sẽ tìm thấy trên mặt bàn một chiếc chìa khóa khác, hoặc giả là một cuốn sách hướng dẫn các bước để rút gọn cơ thể lại như một cái ống nhòm; và lần này cô bé tìm thấy một cái chai nhỏ trên đó, (“mà chắc chắn là ban nãy chưa hề có ở đó”, Alice tự nhủ), và xung quanh cổ chai là một cái nhãn giấy nhỏ, trên ghi “HÃY UỐNG TÔI” in rất đẹp bằng những con chữ lớn. 



Cái chai đã nói rất rõ ràng là “Hãy uống tôi,” nhưng cô bé Alice khôn ngoan chẳng hề nóng vội làm thế chút nào. “Không, mình sẽ quan sát kỹ nó trước,” cô bé nói, “và để ý xem nó có bị đánh dấu là ‘có độc’ hay không,”; bởi cô bé đã nghe kể những mẩu chuyện nho nhỏ về những đứa bé bị bỏng, bị thú dữ ăn thịt và đủ thứ kinh khủng khác, tất cả cũng chỉ vì chúng đã không lắng nghe một vài luật lệ đơn giản mà những người bạn của chúng đã dạy chúng, đấy là nếu cầm một cái que cời than nóng đỏ quá lâu, bạn sẽ bị bỏng; và nếu bạn cắt tay mình thật là sâu bằng một con dao, thường thì nó sẽ chảy máu; và một điều cô bé chưa bao giờ quên là, nếu bạn uống quá nhiều từ một cái chai có đánh dấu là “có độc”, sớm hay muộn bạn cũng sẽ ngỏm đó, sớm hay muộn thôi. 

Tuy nhiên, cái chai này không hề có đánh dấu là “có độc”, vậy nên Alice đánh liều nếm thử nó, và thấy rằng vị của nó cũng rất là dễ chịu, (thực ra, nó có một dạng như kiểu hỗn hợp vị của các thứ như bánh nướng anh đào, bánh xốp trứng, quả dứa, thịt gà quay, kẹo sô cô la, và bánh mì phết bơ nướng), chẳng mấy chốc mà cô bé đã tu cạn hết cả chai. 

* * * * * * * * * * * * * * * 

“Thực là một cảm giác mới kỳ lạ làm sao!” Alice nói, “Hẳn người mình đang rút gọn dần lại như một cái ống nhòm đây!” 

Và quả đúng vậy thật, cô bé giờ chỉ cao khoảng hơn hai chục phân; và khuôn mặt cô bé rạng rỡ hẳn lên khi thấy rằng mình đã ở đúng cỡ để có thể chui lọt qua cánh cửa dẫn vào khu vườn tuyệt đẹp kia. Nhưng, cô bé vẫn còn phải đợi xem mình có còn nhỏ lại thêm chút nào không nữa. “Vì, nhỡ đâu nó lại, biết đấy,” Alice tự nói với bản thân, “nhỏ mãi, nhỏ mãi rồi biến mất luôn thì sao, như kiểu một cây nến ấy? Mình tự hỏi không biết lúc ấy thì mình trông sẽ thế nào?” Và cô bé bắt đầu cố hình dung ra ngọn lửa của cây nến trông sẽ thế nào sau khi nó bị thổi tắt, bởi cô bé không thể nhớ ra được là đã từng thấy một cảnh nào giống vậy cả. 

Sau một lúc, khi đã chắc rằng chẳng có gì sẽ xảy ra nữa, cô bé quyết định tới ngay chỗ cánh cửa, nhưng, tội nghiệp thay cho Alice! Khi tới chỗ cánh cửa, cô bé mới nhớ ra là mình đã để quên chiếc chìa khóa vàng trên mặt bàn, và khi quay lại để lấy nó, cô bé nhận ra là mình chẳng thể nào chạm nổi tới nó nữa. Cô bé có thể thấy nó khá là rõ qua lớp thủy tinh, và cô đã cố gắng hết sức để bám và leo lên một cái chân bàn, nhưng bất khả thi vì nó quá là trơn. Khi đã quá mệt và không thể thử tiếp được nữa, cô nhóc tội nghiệp ngồi thụp xuống và bắt đầu khóc. 

“Thôi nào, khóc lóc như thế này có giải quyết được vấn đề gì đâu?!” Alice tự nói với bản thân, giọng cương quyết. “Tôi khuyên cậu nên ngừng khóc lại ngay lập tức!” Cô bé vẫn thường tự cho mình những lời khuyên rất hữu ích giống vậy (mặc dù chẳng mấy khi cô bé làm theo chúng), và nhiều khi cô bé còn tự mắng mình rất thậm tệ đến mức phải phát khóc cả ra nữa; và có một lần cô bé nhớ mình còn đã tự búng tai mình, vì đã ăn gian chính mình trong một trò Crôkê cô đã chơi với chính mình; bởi đứa trẻ kỳ lạ này rất thích việc giả vờ làm hai người một lúc. “Nhưng cũng chẳng có ích gì nữa,” Alice tội nghiệp nhủ thầm, “trong cái việc tự giả vờ làm hai người, khi mà giờ đây mình chẳng còn lại mấy tí để mà đủ làm được MỘT người cho hẳn hoi nữa!” 

Rồi bỗng nhiên đôi mắt của cô bé bắt gặp một cái hộp thủy tinh nhỏ nằm ngay bên dưới chiếc bàn; cô bé mở nó ra, và tìm thấy bên trong một cái bánh nướng nhỏ xíu, trên có dòng chữ “HÃY ĂN TÔI” rất đẹp xếp bằng những quả nho khô. “Được, vậy mình sẽ ăn nó,” Alice nói, “và nếu nó làm cho mình lớn hơn, mình sẽ với lấy được cái chìa khóa; còn nếu nó làm cho mình nhỏ hơn, mình sẽ có thể chui qua khe cửa; vậy là đằng nào thì mình cũng sẽ vào được khu vườn, và mình không quan tâm đến chuyện gì sẽ xảy ra sau đó!” 

Cô bé cắn một miếng nhỏ, rồi lo lắng tự hỏi mình, “Đằng nào? Đằng nào đây?”, rồi còn giữ bàn tay trên đầu để xem mình đang cao lên hay nhỏ đi nữa, và cô bé đã khá bất ngờ khi thấy dường như mình vẫn đang ở nguyên kích thước cũ thì phải. Nói đúng ra, chuyện này là rất đỗi bình thường khi bạn ăn một cái bánh, nhưng Alice đang quá mong đợi những chuyện hết sức quái lạ sẽ diễn ra, đến mức cảm thấy thật chán ngán và ngớ ngẩn khi mà cuộc sống lại vận hành theo những cách thông thường vốn có của nó. 

Vậy là cô bé bắt đầu ăn tiếp một miếng nữa, và chẳng mấy chốc đã chén sạch cả cái bánh. 
__________________________________

[1] Hoa cúc tết lại thành một cái vòng nhỏ, để đeo vào cổ hoặc đội lên đầu. 

[2] Loại ống nhòm vào thời xưa, có thể rút gọn lại hoặc kéo dài ra được; giống như cái ăng ten đài ra-đi-ô.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét