Thứ Bảy, 28 tháng 4, 2012

Lời khuyên từ Ngài Sâu bướm


Con Sâu Bướm và Alice nhìn nhau một lúc trong im lặng. Cuối cùng, nó bỏ cái tẩu thuốc ra khỏi miệng; và hỏi cô bé bằng một giọng lờ đờ, ngái ngủ: “Cô là ai?” 

Đây hẳn không phải là một câu mở đầu hứa hẹn gì cho một cuộc nói chuyện. Alice trả lời nó, hơi ngượng ngùng, “Cháu… cháu cũng không biết, thưa ngài, ngay lúc này mình là ai nữa - ít nhất thì cháu cũng biết cháu ĐÃ TỪNG là ai, lúc cháu thức dậy sáng nay; nhưng kể từ lúc đó đến giờ, cháu e là mình đã thay đổi quá nhiều rồi.” 

“Ý cô là gì?” con Sâu bướm nghiêm nghị nói. “Giải thích chính mình đi!” 

“Cháu e là cháu không thể giải thích chính mình được, thưa ngài,” Alice nói, “bởi cháu đã không còn là chính cháu nữa, như ngài thấy đấy.” 

“Ta không thấy,” con Sâu bướm nói. 

“Cháu e là cháu không biết diễn giải thế nào cho nó rõ hơn được,” Alice trả lời lại một cách rất lịch sự, “bởi cả chính cháu cũng chẳng hiểu nổi nó nữa; cứ phải biến đi biến lại đủ mọi kích cỡ trong chỉ một ngày thực sự là làm cháu hết sức khó hiểu.” 

“Nó không khó hiểu,” con Sâu bướm nói. 

“Ừm, có lẽ là ngài chưa thấy nó thế,” Alice đáp, “nhưng đến khi ngài biến thành nhộng - ngài chắc chắn sẽ biến thành nhộng vào một ngày nào đó, ngài biết đấy - và sau đó, là biến thành một chú bướm. Cháu nghĩ hẳn lúc đó ngài cũng sẽ thấy có một chút kỳ kỳ chứ, phải không?” 

“Không dù chỉ một chút,” con Sâu bướm nói. 

“Vậy có lẽ cảm giác của ngài khác với của cháu,” Alice nói, “cháu chỉ biết nếu là cháu thì cháu sẽ thấy rất là lạ.” 

“Nếu là cô!” con Sâu bướm khinh khỉnh đáp “ là ai?” 

Thế là câu chuyện của họ lại quay trở lại điểm xuất phát. Alice cảm thấy có chút khó chịu vì con Sâu bướm cứ đáp theo cái kiểu câu một câu một bất lịch sự; cô bé liền nhỏm dậy và nói, giọng trầm trọng, “Cháu nghĩ, ngài nên nói cho cháu biết ngài là ai trước đã!” 

“Tại sao?” con Sâu bướm hỏi lại. 

Lại một câu hỏi khó nữa; và vì Alice chẳng thể nghĩ ra cách nào để mà trả lời nó được, và đồng thời trông con Sâu bướm cũng chẳng có vẻ vui vẻ gì, cô bé liền quay người lại và bỏ đi. 

“Quay lại đây!” con Sâu bướm gọi theo cô bé. “Ta có chuyện quan trọng cần nói!” 

Cái này thì nghe có vẻ hứa hẹn đấy, chắc chắn thế. Alice liền quay trở lại chỗ nó. 

“Đừng có nổi nóng,” con Sâu bướm nói. 

“Có thế thôi ạ?” Alice nói, cố gắng nuốt trôi cơn giận của mình. 

“Chưa hết,” con Sâu bướm nói. 

Alice nghĩ có lẽ tốt hơn là mình nên đợi, đằng nào cô bé cũng chẳng có việc gì khác để mà làm, và có khi con Sâu bướm sẽ tiết lộ cái gì đó đáng để bỏ công nghe. Suốt vài phút liền, con Sâu chỉ thở ra khói thuốc mà chẳng nói chẳng rằng gì hết, nhưng cuối cùng thì nó cũng thôi không khoanh tay nữa, bỏ cái tẩu thuốc ra khỏi miệng nó, rồi nói, “Vậy cô nghĩ là mình đã bị biến đổi hả?” 

“Cháu e là đúng vậy, thưa ngài,” Alice nói, “Cháu không thể nhớ nổi những thứ mà cháu đã từng nhớ; và cháu không thể ở nguyên một kích cỡ nào, dù chỉ là trong mười phút!” 

“Không thể nhớ nổi cái gì cơ?” con Sâu bướm hỏi. 

“Ừm, cháu đã thử ngâm “Chăm chỉ biết bao, chú ong nhỏ” [1], nhưng đọc ra nghe chẳng giống bài thơ gốc gì hết!” Alice nói bằng một giọng buồn bã. 

“Thử đọc lại bài ‘Cha đã già rồi, Cha William,’ xem,” con Sâu bướm nói. 

Alice liền khoanh tay lại, và bắt đầu đọc: 

“Cha đã già rồi, Cha William,” cậu con trai nói, 

“Và tóc cha đã bạc nhiều lắm rồi; 

Vậy mà cha cứ đứng lộn đầu xuống đất 

Cha có nghĩ rằng, ở tuổi cha, làm thế là đúng không? 



“Ở thời ta còn trẻ,” Cha William trả lời cậu con, 

“Ta đã sợ làm thế sẽ ảnh hưởng đến não; 

Nhưng giờ, khi đã chắc chắn là ta chẳng hề có nó, 

Sao, ta cứ làm đi rồi làm lại thôi!” 



“Cha đã già,” cậu con bảo, “như con vừa đã nói, 

Và cha béo đến một cách khác thường, 

Vậy nhưng cha cứ khoái lộn cà tưng mỗi khi ra khỏi cửa, 

Con xin cha, cha làm thế để làm gì vậy?” 



“Kể từ thời ta còn trẻ,” ông đáp, rũ rũ mớ tóc bạc, 

“Ta đã giữ cho tay chân ta luôn mềm dẻo như thế 

Bằng thứ thuốc mỡ này - một si-linh một hộp - 

Con có muốn mua lấy vài hộp về dùng không?” 



“Cha đã già,” cậu con nói, “và răng cha đã phải yếu lắm rồi, 

Đúng ra không ăn được thứ gì cứng hơn miếng thịt mỡ 

Vậy mà cha vẫn xơi sạch một con ngỗng, nguyên cả xương cả mỏ, 

Con xin cha, cha đã làm thế nào vậy?” 



“Ở thời ta còn trẻ,” ông bố nói, “ta vẫn thường phải ra tòa án, 

Và cứ mỗi vụ, lại cãi nhau nảy lửa với bà vợ ta, 

Và cơ hàm ta cứ phát triển mãi từ đó, cho đến giờ 

Nó sẽ còn khỏe cho đến tận ngày ta chết!” 



“Cha đã già,” cậu con nói, “và người ta phỏng đoán, 

Rằng thị lực của cha đã yếu lắm rồi, 

Thế nhưng cha còn có thể giữ thăng bằng được một con lươn trên đỉnh mũi, 

Nhờ đâu mà cha lại khéo léo đến vậy?” 



“Ta đã trả lời ba câu hỏi, và thế là đủ lắm rồi,” 

ông bố nói, “Đừng có mà tọc mạch quá!” 

“Mày nghĩ là ta có thể ngồi cả ngày nghe mày hỏi đó chắc? 

Đi chỗ khác chơi, không ta đá cho lộn cổ xuống bây giờ!” 

“Đọc không đúng rồi,” con Sâu bướm nói. 

“Có hơi sai một tí, cháu e là vậy,” Alice nói, “có vài từ hình như bị đổi khác đi đôi chút.” 

“Cả bài thơ đó sai từ đầu đến cuối,” con Sâu bướm nói một cách dứt khoát, và tiếp theo sau đó là khoảng mấy phút liền im lặng. 

Rồi con Sâu bướm mở miệng nói lại trước tiên. 

“Cô muốn được ở kích cỡ nào?” nó hỏi. 

“Ôi, cháu không kén chọn gì kích cỡ đâu,” Alice vội vã trả lời, “chỉ cần nó đừng đột ngột thay đổi lung tung nữa, ngài biết đấy.” 

“Ta không biết,” con Sâu bướm nói. 

Alice chẳng nói gì hết: chưa bao giờ mọi thứ lại mâu thuẫn với nhau đến thế; và cô bé thấy có vẻ mình sắp sửa phát cáu lên rồi. 

“Giờ với kích cỡ này thì cô đã hài lòng chưa?” con Sâu bướm hỏi. 

“Ừm, nếu được thì cháu muốn lớn lên thêm một xíu nữa, nếu ngài không phiền,” Alice nói, “chiều cao mà có bảy phân[2] thì thực là tệ hại hết sức.” 

“Cái đó là một chiều cao hoàn toàn lý tưởng!” con Sâu bướm giận dữ nói, đứng thẳng người dậy bằng mấy đôi chân sau: nó cao vừa đúng bảy phân, không hơn không kém. 

“Nhưng cháu không quen với nó!” Alice biện hộ lại một cách thảm thương. Cô bé thầm nghĩ, “Ước gì những con vật ở đây không quá dễ bị xúc phạm thế này!” 

“Rồi cô cũng sẽ quen thôi,” con Sâu bướm nói; đặt cái ống điếu vào miệng và lại rít tiếp những hơi thuốc. 

Lần này thì Alice kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi nó chịu mở miệng nói trở lại. Sau khoảng một hoặc hai phút, con Sâu bướm mới gỡ cái ống điếu ra khỏi miệng, ngáp một hai cái, rồi lắc mình đứng dậy. Nó xuống khỏi cây nấm, và chậm rãi bò đi trên nền cỏ, vừa đi vừa nói, “Một bên sẽ làm cô lớn hơn, còn bên kia sẽ làm cô nhỏ đi.” 

“Một bên của cái gì? Còn bên kia của cái gì mới được?” Alice thầm thắc mắc. 

“Của cây nấm ấy,” con Sâu bướm nói, cứ như thể cô bé vừa mới mở miệng ra hỏi vậy; và chẳng mấy chốc nó đã biến mất tăm mất dạng. 

Alice băn khoăn nhìn cây nấm trong khoảng một phút, cố gắng suy đoán xem những bên nào là “hai bên”; và bởi cái cây nấm đó có hình tròn, việc trả lời được câu hỏi này chẳng dễ một chút nào cả. Nhưng rồi, cuối cùng, cô bé quyết định vươn hai cánh tay ra ôm lấy cái tán nấm, vươn xa hết mức có thể, và cứ mỗi tay cô bé lại bẻ lấy một mẩu nấm. 

“Và giờ cái nào là cái nào đây?” cô bé tự hỏi mình, và cắn một miếng nhỏ ở cái mẩu bên tay phải để thử tác dụng. Ngay lập tức, cô bé cảm thấy cằm mình bị đập mạnh một cái, hóa ra nó đã đụng phải chân của cô bé rồi! 

Alice kinh hoàng hết sức trước cái cảnh này, nhưng cô bé thấy là mình không còn nhiều thời gian nữa, bởi cô vẫn đang liên tục bị thu nhỏ lại; thế nên cô bé lập tức cắn ngay một miếng nấm bên tay trái. Cái cằm cô bé lúc này đã bị chèn vào chân sát quá, đến mức khó mà mở miệng ra được; nhưng cuối cùng thì cô bé cũng đã làm được, và xoay sở nuốt được một mẩu nấm bên tay trái. 

* * * * * * * * * * * * * * * 

“A, đầu mình lại được thoải mái trở lại rồi!” Alice reo lên, giọng sung sướng. Nhưng chỉ một tích tắc sau nó đã chuyển thành giọng hoảng sợ, khi cô bé nhận ra là đã không còn thấy đôi vai của mình đâu nữa: lúc nhìn xuống, tất cả những gì mà Alice có thể thấy chỉ là một cái cần cổ dài đến vĩ đại, mọc lên như một tòa tháp trên một biển lá xanh rậm rì trải ra phía bên dưới. 

“Cái đám xanh xanh đó là cái gì vậy chứ?” Alice nói. “Và đôi vai của mình biến đi đâu mất rồi? Và ôi, đôi tay tội nghiệp của mình, sao mình lại không thể trông thấy chúng đâu thế này?” Vừa nói cô bé vừa thử vung vẩy hai cánh tay, nhưng chẳng có chút kết quả gì cả, chỉ trừ một chút rung lắc nhỏ giữa một đám lá xanh ở xa tít mù tắp phía bên dưới. 

Vì có vẻ không thấy có khả năng có thể đưa tay mình lên đến đầu được, cô bé liền thử cúi đầu xuống đến chỗ của đôi tay, và rất sung sướng khi nhận ra rằng cái cổ dài ngoằng của mình có thể rất dễ dàng xoay trở đi khắp mọi hướng, hệt như một con rắn vậy. Cô bé vừa thành công trong việc uốn cái cần cổ thành một hình zíc zắc rất duyên dáng, và đang lặn mình xuống biển lá bên dưới, và nhận thấy rằng hóa ra chúng chính là tán lá của những cái cây trong khu rừng nơi cô bé vừa lang thang ban nãy; thì bỗng nhiên một tiếng rít lớn buộc cô bé phải trồi lên ngay lập tức. Một con bồ câu lớn đã lao thẳng vào mặt cô bé, và đang vụt tới tấp vào cô bằng hai cánh của mình. 

“Rắn!” con Bồ câu thét lên. 

“Tôi không phải là rắn!” Alice giận dữ nói. “Mau tránh xa tôi ra!” 

“Ta bảo là rắn!” con chim nhắc lại, tuy vậy lần này giọng nó nghe nhỏ hơn trước, và có vẻ như nó đang vừa khóc vừa nói, “Ta đã thử đủ mọi cách, nhưng chẳng có cách nào dùng được với các người hết!” 

“Tôi hoàn toàn không hiểu bạn đang nói về cái gì!” Alice kêu lên. 

“Ta đã thử làm ở chỗ rễ cây, ở bên bờ sông, và ta đã thử cả ở chỗ những dãy hàng rào nữa,” con Bồ câu cứ nói tiếp mà không chú ý gì đến cô bé, “nhưng lũ rắn khốn kiếp đó! Không có gì làm vừa lòng được chúng hết!” 

Alice càng lúc càng thấy khó hiểu, nhưng cô bé thấy có lẽ tốt nhất là không nói gì cả, cho đến khi con vật đó nói xong phần của nó. 

“Cứ làm như nguyên việc ấp trứng thôi đã không đủ mệt rồi,” con Bồ câu nói, “vậy mà ta vẫn còn phải canh chừng lũ rắn bọn mi suốt ngày suốt đêm! Ta đã không được chợp mắt chút nào trong suốt ba ngày rồi!” 

“Tôi rất xin lỗi vì đã làm phiền bạn,” Alice nói, khi đã dần dần hiểu ra được ý nó định nói. 

“Và chỉ vừa khi ta đã chọn lấy cái cây cao nhất trong cả khu rừng!” con chim tiếp tục nói, giọng càng lúc càng rít lên the thé. “Chỉ vừa khi ta nghĩ cuối cùng đã thoát được khỏi bọn mi, các người lại phải lao thẳng từ trên trời xuống! Ôi, lũ rắn các người!” 

“Nhưng tôi không phải là một con rắn, tôi đã nói với bạn rồi mà!” Alice nói. “Tôi là… là…” 

“A! Thế cô là cái gì hả?” con Bồ câu nói. “Ta có thể thấy cô đang sắp sửa bịa ra một cái tên nào đó đấy!” 

“Tôi… tôi là một cô bé,” Alice nói, có chút băn khoăn, khi cô bé nghĩ lại về tất cả các sự thay đổi mà cô bé đã trải qua suốt từ sáng tới giờ. 

“Nghe thuyết phục nhỉ!” con Bồ câu nói bằng một cái giọng cực kỳ mỉa mai. “Ta đã thấy rất là nhiều các cô bé rồi, nhưng chưa bao giờ thấy đứa nào với cái cổ dài như của mi hết! Không, không! Mi là một con rắn; đừng có chối cãi làm gì vô ích! Ta đoán hẳn tiếp theo đây mi sẽ nói rằng, cả đời mi chưa bao giờ được ăn trứng!” 

“Tôi đã có ăn trứng rồi chứ, tất nhiên,” Alice, vẫn luôn rất thật thà, nói. “Nhưng các cô bé thì cũng ăn nhiều trứng như là các con rắn vậy, bạn biết đấy.” 

“Ta không tin điều đó,” con Bồ câu nói; “nhưng nếu đúng thế, thì chúng cũng là một loại rắn, thế thôi.” 

Đây quả là một ý tưởng mới lạ đối với Alice, nó khiến cô bé phải im lặng suy nghĩ mất vài phút, con Bồ câu liền nhân cơ hội này nói tiếp, “Cô đang tìm trứng, cái đó ta biết chắc chắn; vậy thì với ta, có quan trọng gì chuyện cô là rắn hay là một bé gái?” 

“Nó có quan trọng với tôi,” Alice vội vàng nói. “Nhưng tôi không phải đang đi tìm trứng, và kể cả nếu tôi có tìm đi chăng nữa, thì cũng không phải trứng của bạn: tôi vốn không thích ăn trứng sống.” 

“À, vậy thì mau biến đi!” con vật nói, sưng sỉa, rồi quay trở lại chỗ cái tổ của nó. Alice cố cúi xuống xa hết mức có thể, bởi cái cổ dài ngoằng của cô bé cứ bị vướng vào mấy cái cành cây, và cứ chốc một cô bé lại phải dừng lại để gỡ nó ra. Sau khoảng một lúc, cô bé mới nhớ ra là mình vẫn còn giữ mấy mẩu nấm ở trong tay, và thế là rất cẩn thận, cô bé bắt đầu cắn một miếng nhỏ ở bên này, rồi lại một miếng nhỏ khác ở bên kia, và lúc thì cao lên, lúc thì hóa nhỏ lại, cho đến lúc cô bé thành công trong việc trở lại chiều cao bình thường của mình. 

Đã quá lâu rồi cô bé mới được trở lại kích cỡ thật của mình, đến nỗi lúc đầu cảm giác còn có hơi là lạ; nhưng rồi chỉ sau vài phút là cô bé đã quen lại được với nó ngay, và lại bắt đầu tự nói chuyện với mình như trước. “Được, thế là đã xong được một nửa kế hoạch! Tất cả những cái trò biến đổi này chứ, mới khó hiểu làm sao! Chẳng bao giờ biết được một phút sau mình sẽ trở thành cái gì nữa! Nhưng thôi, cuối cùng mình cũng đã về được kích thước đúng của mình rồi; việc tiếp theo là làm sao vào được khu vườn tuyệt đẹp đó đây. Làm thế nào đây nhỉ, mình tự hỏi?” Vừa dứt lời thì cô bé thấy mình đã đến được một chỗ rất rộng rãi, có một ngôi nhà nhỏ ở đó, cao chỉ khoảng có hơn một mét[3]. “Dù cho có bất kỳ ai sống ở đó đi nữa,” Alice tự nhủ, “cũng không thể lại gần họ với cái kích cỡ thế này được, sao, vì nó sẽ dọa cho họ sợ mất vía đi mất thôi!”. Vậy là cô bé liền gặm một miếng nấm nhỏ bên tay phải, và chỉ dám lại gần ngôi nhà khi mình đã thu nhỏ lại, chỉ còn cao có khoảng hơn hai chục phân.[4]
_______________________________

[1] Bài thơ “How doth the little busy bee, , xin xem lại ở phần chú thích cuối chương hai 

[2] Nguyên bản: “three inches”, tức ba ing, bằng khoảng 7,6 cm 

[3] Nguyên bản: “four feet high” tức bốn foot, bằng khoảng 1,2 mét 

[4] Nguyên bản: “nine inches high”, tức chín ing, bằng khoảng 22,8 cm

Thứ Năm, 26 tháng 4, 2012

Bill được cử đi vào nhà


Tiếng bước chân đó là của con Thỏ Trắng; nó đang lạch bạch chạy trở lại chỗ Alice, vừa đi vừa ngó quanh quất xung quanh như thể đang tìm kiếm một thứ gì đó; và cô bé nghe thấy nó cứ lẩm bẩm tự nói với mình, “Ôi, nữ công tước, nữ công tước! Ôi móng tay yêu quý của ta! Ôi râu ta, ôi tai ta! Mụ sẽ tử hình ta mất, cái đó là chắc như bắp! Ôi, ta đã đánh rơi chúng ở đâu rồi cơ chứ?” Alice, sau một hồi nghe trộm, đoán ra rằng hẳn nó đang tìm kiếm cái quạt và đôi găng tay trắng mà cô bé mới thấy ban nãy; và cô bé, với bản tính tốt bụng, cũng liền xáp vô tìm kiếm giúp nó, nhưng mãi mà chẳng thấy chúng đâu cả. Tất cả mọi thứ có vẻ như đều đã đổi khác đi hết, kể từ lúc cô bé còn ngụp lặn trong cái bể nước mắt; dãy hành lang, với cái bàn thủy tinh và cánh cửa bé tí hon, đều đã hoàn toàn biến mất không để lại dấu vết. 

Chẳng mấy chốc con Thỏ cũng nhận ra sự hiện diện của Alice, và nó gọi to cô bé bằng một giọng giận dữ, “Này, Mary Ann, cô làm cái gì ở đây vậy hả? Mau chạy về nhà ngay, rồi mang trở lại đây cho ta một cái quạt và một đôi găng trắng! Mau, làm ngay đi!” Alice sợ đến nỗi lập tức chạy ngay theo hướng tay nó chỉ, mà không dừng lại để giải thích cho con thỏ sự lầm lẫn của nó. 

“Nó nhầm mình với cô hầu của nó,” cô bé vừa chạy vừa tự nói thầm với mình. “Rồi đến khi biết được mình thực sự là ai, hẳn nó sẽ phải ngạc nhiên lắm đây! Nhưng mình nên nhanh nhanh mà mang cho nó cái quạt và đôi găng thôi - đấy là nếu mình có thể tìm được chúng!” Dứt lời thì cô bé nhìn thấy một ngôi nhà nhỏ, trên cánh cửa trước nhà có gắn một tấm bảng tên bằng đồng, trên có khắc chữ “THỎ TRẮNG”. Alice không gõ cửa mà bước thẳng ngay vào nhà, và ba chân bốn cẳng chạy lên tầng trên ngay lập tức, vì sợ sẽ đụng phải cô nàng Mary Ann thật, và sẽ bị tống ra khỏi nhà trước khi tìm được cái quạt và đôi găng tay. 

“Mới kỳ làm sao,” Alice tự nói với mình, “mình bị một con thỏ sai đi lấy đồ chứ! Thế này có khi tiếp theo sẽ đến lượt con Dinah sai mình đi lấy đồ cho nó mất thôi!” Và thế là cô bé bắt đầu tưởng tượng những việc có thể xảy ra, “Cô Alice! Tới đây ngay lập tức, và hãy sẵn sàng để cùng tôi đi dạo!” “Chỉ có điều mình không nghĩ,” Alice tiếp, “là người ta sẽ cho Dinah được ở lại trong nhà, nếu nó cứ đi khắp nhà và ra lệnh cho mọi người như vậy!” 

Nói đến đây xong thì Alice cũng đã đến được một căn phòng nhỏ nhắn ngăn nắp, với một cái bàn bên cạnh cửa sổ, và trên mặt bàn (như cô bé đã kỳ vọng), là một cái quạt và khoảng hai, ba đôi găng tay trắng. Vừa lúc định rời khỏi phòng thì mắt cô bé bắt gặp một cái chai nhỏ đặt cạnh tấm gương nơi góc phòng. Lần này thì trên chai không có cái nhãn giấy với chữ “Hãy uống tôi!” nào cả, nhưng cô bé vẫn bật nắp chai và đưa nó lên miệng. “Mình biết thứ gì đó thú vị sẽ xảy ra ngay,” cô bé tự nói với mình, “mỗi khi mình ăn hay uống thứ gì đó ở dưới này, thế nên giờ chỉ cần xem cái chai này có thể làm được gì thôi. Hy vọng là nó có thể giúp mình hóa lớn trở lại, bởi thực sự thì mình đã rất mệt mỏi với việc phải làm một đứa bé tí xíu thế này rồi!” 

Và thực sự nó đã khiến cô bé lớn bổng lên thật, và còn nhanh hơn hẳn tốc độ mà cô bé dự tính nữa: mới chưa uống hết một nửa chai mà Alice đã thấy đầu mình cụng phải trần nhà, và cô bé phải khom gập cả người lại để đứng, cho khỏi bị gãy cổ. Cô bé vội vàng vứt cái chai xuống đất, rồi tự lẩm nhẩm với mình, “Thế này là đủ rồi, đủ rồi. Hy vọng mình sẽ không lớn thêm chút nào nữa, nếu không mình sẽ không chui lọt qua cánh cửa kia mất! Mình thực sự ước gì mình đã không uống nhiều như vậy!” 

Nhưng khổ thay! Đã quá muộn để ước cái điều đó! Cô bé cứ tiếp tục lớn lên, lớn lên, chẳng mấy chốc thay vì đứng thẳng thì đã phải quỳ gối trên sàn nhà, và chỉ một phút sau thì cũng chẳng còn đủ chỗ trong phòng để mà quỳ gối nữa, cô bé đành phải nằm xuống, một khuỷu tay tựa vào cánh cửa, tay kia thì ôm quanh đầu. Và cô bé vẫn tiếp tục lớn lên, không dừng lại, và cuối cùng, cô bé phải vươn một cánh tay ra chỗ cửa sổ, một chân đạp tới tận chỗ ống khói; và cô bé tự nói với mình, “Thế này là hết cách rồi, dù có gì xảy ra đi chăng nữa. Giờ thì mình sẽ trở thành cái gì đây?” 


May mắn cho Alice, tác dụng ma thuật của cái chai nhỏ đó đã dừng lại, và cô bé không lớn lên thêm một chút nào nữa. Mặc dù vậy thì tình cảnh giờ cũng đã đủ bi đát lắm rồi, có vẻ như chẳng còn có cơ hội nào để thoát ra được khỏi căn phòng này nữa; trách sao cô bé chẳng cảm thấy khó chịu. 

“Ở nhà mình, mọi thứ dễ chịu hơn hẳn,” Alice tội nghiệp thầm nghĩ, “ở đó chẳng bao giờ có chuyện tự dưng lớn lên rồi tự dưng lại nhỏ đi, cũng chẳng bao giờ có chuyện bị lũ thỏ và lũ chuột sai vặt…cơ mà…cơ mà… cái cuộc sống này này, nó cũng kỳ thật đấy! Mình tự hỏi không biết những gì đã có thể xảy ra với mình! Hồi trước, những khi mình đọc truyện cổ tích, mình luôn tưởng tượng ra đủ thứ chẳng thể nào có thật, và giờ thì mình đang ở giữa một đống những thứ như vậy! Nên có một quyển sách viết về mình, nên thế lắm! Và khi nào mình lớn, mình sẽ viết một quyển như thế - ơ mà, mình đã quá lớn rồi còn gì,” và cô bé nói bằng một giọng buồn bã, “ít ra thì giờ cũng chẳng còn chỗ trong phòng để mà lớn thêm tí nào nữa!” 

“Nhưng nếu vậy thì,” Alice nghĩ, “chẳng phải mình sẽ chẳng bao giờ già đi nữa hay sao?” (vì “lớn lên” hay “già đi” thì cũng thế cả mà!). “Thế cũng được chút an ủi, vì một mặt - không bao giờ phải làm một bà già - thế nhưng - lúc nào cũng sẽ phải học! Ôi, mình chắc chắn sẽ không thích thế, không một chút nào hết!” 

“Ôi Alice, đúng là đồ ngốc nghếch!” cô bé tự trả lời mình. “Làm thế nào mà mày học được ở chỗ này cơ chứ? Nhìn xem, đến chỗ cho mày mà còn chả đủ nữa, lấy đâu ra chỗ để mà nhét sách với vở vào mà học nữa đây?” 

Và rồi cô bé cứ thế, liên tục đổi vai và tự nói chuyện với mình, và cái cuộc chuyện trò đó cũng diễn ra khá là trôi chảy; rồi sau khoảng một vài phút, bỗng nhiên cô bé nghe thấy tiếng ai đó ở bên ngoài, cô bé liền dừng nói lại để lắng nghe. 

“Mary Ann! Mary Ann!” giọng nói đó gọi. “Mau mang cho ta đôi găng xuống đây ngay!” Rồi đến tiếng bước chân lộp cộp khua trên những bậc cầu thang. Alice biết ngay đó là con Thỏ Trắng, quay lại để kiếm cô, và sợ quá, khắp người cô bé run lên bần bật, làm cả ngôi nhà rung chuyển. Cô bé đã quên mất tiêu là giờ mình đã lớn gấp cả trăm lần con Thỏ, vậy nên đâu có lý do gì để mà sợ nó! 

Lúc này con Thỏ đã đến được bên cánh cửa, và cố gắng mở nó ra; nhưng, vì cái cánh cửa đó được thiết kế mở vào trong, và ở bên trong thì khuỷu tay của Alice đã chèn chặt cứng cửa lại rồi, thế nên cái nỗ lực nho nhỏ đó của nó thất bại hoàn toàn. Alice nghe thấy nó tự nói với mình, “Vậy thì ta sẽ đi đường vòng và chui vô qua lối cửa sổ.” 

“Kế đó cũng không xài được đâu,” Alice thầm nghĩ. Sau một lúc đợi, Alice thấy hình như có tiếng động của con Thỏ lục cục phía dưới cửa sổ, cô bé bất ngờ vươn thẳng cánh tay của mình ra, giật mạnh một cái trong không khí hòng tóm lấy chú Thỏ. Cô bé chẳng tóm được cái gì hết, nhưng nghe thấy một tiếng hét và tiếng ai đó té, rồi tiếng thủy tinh vỡ vụn, từ đó khiến cô bé đoán ra hẳn là nó đã té trúng phải một cái nhà kính trồng cây ở khu vườn bên dưới, hoặc chí ít cũng là cái gì đó giống vậy. 

Tiếp theo đó là cái giọng giận dữ của con Thỏ, rít lên the thé, “Pat! Pat! Mi ở đâu rồi hả?”, rồi tiếp đến là một giọng nói mà cô bé chưa từng nghe thấy trước đó, “Chắc chắn là tôi đang ở đây, thưa chủ nhân! Đang đào táo theo như lệnh ngài ạ, thưa chủ nhân!” 

“Đang đào táo!” con Thỏ giận dữ quát, “Đây! Mau đỡ ta ra khỏi cái chỗ này, mau!” (thêm nhiều tiếng thủy tinh vỡ). 

“Giờ nói ta nghe xem, Pat, cái thứ gì ở trên chỗ cửa sổ kia kia?” 

“Chắc chắn rồi, nó là một cánh tay đó, thưa chủ nhân!” (cái giọng nó đọc ra nghe thành “một cánh tây”

“Một cánh tay! Có ai từng thấy cái cánh tay nào to đến thế kia chưa cơ chứ? Coi kìa, nó lấp kín nguyên cả ô cửa sổ luôn!” 

“Chắc chắn là thế đó ạ, thưa chủ nhân; nhưng dù gì thì nó vẫn là một cánh tay!” 

“Hừm, nó không có việc gì ở đây hết, mau lên đó và tống nó đi đi!” 

Tiếp sau đó là cả một hồi im lặng dài, và Alice chỉ có thể nghe thấy những tiếng thì thầm, “Chắc chắn là, tôi không có thích việc đó, không thích chút nào, không thích chút nào đâu!” “Đi làm những gì mà ta bảo đi, đồ nhát gan!”. Và cuối cùng, cô bé lại vươn cánh tay ra thật nhanh một lần nữa, giật mạnh một cái. Lần này thì có đến tận hai tiếng hét, và thêm nhiều tiếng thủy tinh vỡ hơn nữa. “Sao mà có nhiều nhà kính trồng cây quá vậy!” Alice thầm nghĩ. “Không biết họ sẽ làm gì mình tiếp đây! Còn cái việc kéo mình ra khỏi đây ấy à, mình cũng chỉ ước gì là họ có thể làm thế! Mình chắc chắn không muốn ở lại đây lâu thêm chút nào nữa!” 

Cô bé lại đợi thêm một chút mà không nghe thấy gì cả, rồi cuối cùng thấy có những tiếng rùng rục của những chiếc bánh xe nhỏ, và tiếng của bao nhiêu người cùng nói một lúc, cô bé luận ra được những câu sau: “Còn cái thang khác đâu?” - “Ồ, tôi chỉ mang có mỗi một cái thôi, cái kia Bill cầm,” - “Bill, mang nó lại đây, cái thang ấy!” - “Đây, đặt nó vào góc này,” - “Không, buộc nó vào nhau trước đã!” - “Chúng còn chưa đủ đến một nửa độ cao mình cần nữa!” - “Ơi giồi, thế này là ổn rồi, đừng có kén chọn nữa!” - “Này Bill, tóm lấy đầu dây này!” - “Liệu cái mái nhà đó có chịu nổi không?” - Cẩn thận cái chỗ viên ngói bị mẻ đó” - “Ôi, nó đổ kìa, nó đổ kìa! Cẩn thận!” (tiếng cái gì đó đổ đánh rầm một cái) - “Rồi, vừa rồi là thằng nào làm đấy?” - “Chắc là Bill, tôi đoán vậy,” - “Ai sẽ chui xuống cái ống khói đây?” - “Này, tôi thì không đâu nhé! Anh đi đi!” - “Còn lâu đi!” - “Bảo thằng Bill chui xuống.” - “Này, Bill, chủ nhân nói mày đi chui xuống ống khói kìa!” 

“Ồ, vậy Bill sẽ là người chui xuống cái ống khói hả?” Alice tự nói với mình. “Đáng xấu hổ thay, họ có vẻ như đã trút hết mọi gánh nặng lên đầu cậu ấy! Mình không muốn phải ở vào vị trí của Bill lúc này đâu, không bao giờ! Cái ống khói này rất là hẹp, chắc như bắp thế luôn; nhưng có thể là mình sẽ đá được nó một chút!” 

Cô bé cố thọc chân mình càng sâu vào trong ống khói càng tốt, và đợi cho đến lúc thấy có tiếng một con vật nhỏ đang chui lại gần (Alice không đoán ra được nó là con gì), rồi, tự nói với mình, “Bill đến rồi đây”, và cho nó một cái đá thiệt mạnh, và đợi xem chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. 

Thứ đầu tiên mà cô bé nghe thấy là một dàn đồng thanh những tiếng, “Bill ra kìa!”, rồi đến giọng con Thỏ Trắng, “Anh ở cạnh hàng rào kia, mau đỡ lấy hắn!”, rồi im lặng, rồi lại rộn lên một mớ âm thanh, “Nâng đầu nó lên,” - Cho nó tí rượu xem,” - “Đừng có chọc nó nữa!” - “Thế nào rồi, anh bạn? Có chuyện gì vừa xảy ra với anh thế?” 

Cuối cùng là đến một giọng nói thều thào, chin chít, ( “đây chắc hẳn là Bill rồi,” Alice thầm nghĩ), “Ôi, tôi cũng không biết nữa - Tôi đã đủ, cám ơn anh; giờ tôi ổn rồi - nhưng tôi còn rối quá, chẳng biết nó là cái gì nữa. Tôi chỉ biết là, có thứ gì đó lao thẳng vào tôi, cứ như là hộp thú bắn lò xo ấy[1] , và thế là tôi cứ thế phóng thẳng lên, như một quả tên lửa lên trời!” 

“Đúng là như vậy đó, anh bạn! Phóng như một quả tên lửa lên trời!” 

“Chúng ta phải đốt căn nhà này đi thôi!” giọng con Thỏ nói; và Alice gọi to lên hết mức mà cô bé có thể, “Nếu các người mà làm thế, tôi sẽ thả Dinah ra bắt các người!” 

Tất cả lũ vật ở bên dưới bất thình lình im phăng phắc ngay lập tức, và Alice tự nhủ với mình, “Không biết họ sẽ làm gì tiếp đây? Nếu chịu khó động não một chút, hẳn họ sẽ nghĩ đến việc gỡ cái mái nhà ra,”. Sau khoảng một hay hai phút gì đấy, đám đông bên dưới bắt đầu ầm ĩ trở lại, và Alice nghe giọng con Thỏ nói, “Một xe cút kít đầy lại đây!” 

“Một xe cút kít đầy á? Đầy cái gì cơ?” Alice nghĩ, nhưng rồi cô bé cũng không phải thắc mắc lâu, bởi chỉ một phút sau một cơn mưa đá cuội đã phóng rào rào tới qua cửa sổ, một vài viên lao thẳng vào mặt cô bé. “Mình sẽ dừng cái trò này lại,” cô bé tự bảo với mình, và hét to, “Các người tốt hơn hết là đừng có làm cái trò đó một lần nữa!”; tiếng hét này lại tạo thêm một khoảng lặng khác ở cái đám đông bên dưới. 

Bất ngờ Alice nhận ra, những viên sỏi chúng ném vào, khi chạm sàn nhà đều hóa thành bánh kem cả; và thế là một ý tưởng chợt lóe lên trong đầu cô bé. “Nếu mình ăn một trong những cái bánh này,” cô bé tự nhủ, “nó chắc chắn sẽ khiến kích cỡ của mình phải thay đổi, và nếu nó không thể làm cho mình lớn hơn nữa, vậy thì nó sẽ làm cho mình nhỏ lại, có lẽ vậy!” 

Vậy là cô bé nuốt lấy một chiếc bánh, và rất sung sướng khi thấy cơ thể mình hóa nhỏ lại ngay tức khắc. Khi đã vừa đủ nhỏ để chui lọt được qua khung cửa, cô bé lập tức chạy ngay ra khỏi căn nhà, và thấy một đám đông cả chim lẫn thú đang nhốn nháo túm tụm lại cả một đống ở bên ngoài. Chú Thằn Lằn tội nghiệp Bill, ở ngay chính giữa cái đám nhốn nháo đó, đang nằm bê xê lết và được hai chú chuột lang chăm sóc. Ngay lúc Alice vừa xuất hiện, tất cả đám động vật đó đều chạy ùa lại phía cô bé; nhưng cô bé đã quay đầu bỏ chạy nhanh hết sức có thể, chẳng mấy chốc đã vào sâu được bên trong một khu rừng rậm, bỏ lại bọn thú ở mãi xa phía sau. 

“Việc đầu tiên phải làm bây giờ,” Alice tự nói với mình, trong khi dạo bước vơ vẩn trong khu rừng rậm, “là phải lớn trở lại bằng với kích thước đúng của mình; và việc thứ hai là phải tìm ra được đường để trở lại cái khu vườn xinh đẹp đó. Được, cái kế hoạch này nghe cũng ổn đó.” 

Cái kế hoạch đó quả thực nghe chừng rất tuyệt, rất đơn giản; chỉ có một cái khó, đấy là cô bé không có lấy dù chỉ một khái niệm mơ hồ nhất nào về về việc sẽ phải thực hiện nó như thế nào; và trong lúc cô bé còn đang nhìn quanh ngó quất một cách lo lắng xung quanh mình, giữa những cái cây, một tiếng chó sủa rất lớn phát ra từ ngay phía trên đã làm cô bé giật nảy cả mình, và vội vã ngẩng đầu lên nhìn ngay tức khắc. 

Một chú cún con khổng lồ đang nhìn xuống cô bé với một đôi mắt tròn và to vĩ đại; nó rụt rè thò một chân trước ra, cố gắng khều khều cô nhóc. “Ôi, bé cún tội nghiệp!” Alice thốt lên, giọng dỗ dành; và rồi cô bé cố gắng để huýt sáo gọi nó; nhưng đồng thời cô bé cũng rất sợ rằng có thể nó đang đói, và trong trường hợp đó có lẽ nó sẽ xơi tái cô bé mất, bất chấp tất cả các trò dỗ dành và an ủi mà cô nhóc sẽ dùng. 


Gần như không ý thức được việc mình đang làm, cô bé nhặt lấy một cành cây nhỏ, và dứ dứ nó trước mặt con cún; thế là nó nhảy dựng lên ngay lập tức, ẳng lên một cái vì thích thú, và chạy đuổi theo cái que gỗ đó. Alice vội nấp vào đằng sau một cái cây nhỏ, để tránh bị nó đạp phải, và khi cô bé vừa mới đi quanh cái cây được một vòng, con cún lại chạy về phía cô bé, nó vấp và té lộn nhào khi cố gắng chụp lấy cái que. Alice, cứ mỗi bước chân của con cún là cô bé lại sợ nó sẽ dẫm phải mình, liền chạy quanh cái cây một lần nữa, và con chó cứ thế chạy đuổi theo cái que gỗ của cô bé, một hồi dài, cho đến khi cuối cùng nó phải ngồi sụp xuống nghỉ, thở hổn hển, thè cả lưỡi ra ngoài miệng mà thở; và đôi mắt thì lờ đờ chỉ chực khép. 

Alice thấy đây là một cơ hội rất tốt để trốn thoát, vậy nên cô bé lẳng lặng bỏ đi ngay, và chạy thục mạng, cho đến lúc chân cô thấy mệt nhừ và thở không ra hơi được nữa, và tiếng sủa của chú cún con từ đằng xa đã nhỏ đến mức khó có thể nghe thấy được. 

“Thế nhưng nó cũng thật là một chú cún dễ thương chứ!” Alice nói, tựa lưng vào một đóa mao lương vàng để nghỉ, và ngắt một chiếc lá ra để làm quạt. “Mình cũng thích dạy nó làm trò lắm, chỉ giá như mình đủ lớn để mà làm được cái việc đó! Ôi trời ơi! Suýt chút nữa là mình đã quên việc phải lớn lên trở lại! Để xem nào - phải làm thế nào đây? Chắc mình sẽ lại phải ăn hoặc uống cái gì đó, mình nghĩ vậy, thế nhưng, là cái gì mới được cơ chứ?” 

Quả thực, phải ăn hay uống cái gì bây giờ mới được cơ chứ? Alice nhìn khắp xung quanh mình, chỉ thấy toàn những là hoa với cỏ, trông chẳng có thứ gì là có vẻ có thể ăn uống được hết. Ở gần chỗ cô bé đứng có một cây nấm cực to, cao ngang chiều cao của cô bé bây giờ; và sau khi cô đã nhìn bên dưới nó, quan sát kỹ hai bên của nó, rồi nghía ra đằng sau nó, cô bé thấy rằng có lẽ mình cũng nên nhóng lên coi cả phía trên của nó nữa. 

Alice liền cố kiễng chân lên thật cao, và ngó qua cạnh của cây nấm; và đôi mắt của cô bé ngay lập tức đụng phải đôi mắt của một con sâu bướm to bự, đương ngồi chễm chệ trên đỉnh của cây nấm, hai tay khoanh trước ngực, chậm rãi hút thuốc qua một cái điếu hút dài ngoằng; và trông nó có vẻ chẳng chú ý gì, dù chỉ một chút, tới cô bé hết. 


________________________________

[1] Nguyên bản: “a Jack-in-the-box”, một dạng đồ chơi có hình cái hộp vuông, khi mở nắp ra thì sẽ có một con vật hoặc một cái mặt hề bật về phía bạn; nhờ vào sức nén của một cái lò xo bên trong hộp.

Thứ Bảy, 21 tháng 4, 2012

Cuộc chạy đua và một câu chuyện dài ngoằng



Cái đám tụ tập lại bên bờ sông đó, quả thực là một đám đông hết sức dị thường - những con chim với những chiếc lông vũ lết xuống mặt đất, những con thú với bộ lông ướt bết lại, dính chặt vào da; tất cả đều ướt sũng, đều cáu bẳn, và đều rất không thoải mái. 



Câu hỏi trước nhất tất nhiên là, làm thế nào để khô mình khô mẩy lại được đây? Chúng đã có một cuộc hội ý về chủ đề này, và sau vài phút Alice nhận thấy việc mình nói chuyện thân mật với những con vật khá là tự nhiên, chẳng có chút gì kỳ lạ cả, cứ như cô đã quen chúng từ lâu lắm rồi ấy. Thực vậy, cô bé thậm chí còn tranh cãi suốt một hồi với con Vẹt; cuối cùng làm nó phát cáu cả lên, và chỉ nói đi nói lại mỗi một câu: “Ta lớn tuổi hơn cô, do đó phải biết rõ hơn!”, và cái này thì Alice tuyệt đối không chấp nhận, chừng nào nó còn chưa nói là nó chính xác bao nhiêu tuổi, và con Vẹt thì cứ khăng khăng không chịu khai ra tuổi thật của nó, cuối cùng thành ra chẳng ai nói gì ai được hết. 

Cuối cùng chú Chuột, kẻ có vẻ là có uy quyền trong cái đám này, kêu lên, “Ngồi xuống coi, tất cả mọi người, và nghe tôi nói đây! Tôi sẽ khiến các người phải phát chán[1] lên ngay đây!” Tất cả liền ngồi xuống ngay lập tức, xếp thành một vòng tròn lớn, với Chuột ta ở ngay chính giữa tâm vòng tròn. Alice hướng đôi mắt đầy lo lắng của mình lên và nhìn chăm chăm vào nó, vì cô bé khá chắc là nếu không được làm khô người ngay thì cô sẽ bị cảm lạnh nặng mất thôi. 

“E hèm!” con Chuột hắng giọng theo kiểu sắp sửa nói gì đó rất quan trọng. “Tất cả đã sẵn sàng chưa? Đây là thứ đáng chán[2] nhất mà tôi biết đấy. Tất cả mọi người làm ơn giữ trật tự nhé! William Nhà chinh phạt, người được Đức Giáo Hoàng ủng hộ cho mục đích tranh đấu của mình, đã được tôn lên bởi người Anh, những kẻ đang cần một nhà lãnh đạo; bởi gần đây nhân dân nước này đã ngày càng trở nên quen hơn với các cuộc xâm chiếm và chinh phạt. Edwin và Morcar, các bá tước của vùng Mercia và Northumbria…” 

“Ư hừ!” Vẹt vừa run vừa kêu lên. 

“Xin lỗi, có chuyện gì vậy?” Chuột cau mày, nhưng vẫn hỏi bằng một giọng rất lịch sự, “Ông vừa nói gì đó phải không?” 

“Không phải tôi!” Vẹt vội vã nói. 

“Tưởng ông vừa mới nói gì chứ,” Chuột nói. “Tôi kể tiếp - Edwin và Morcar, các bá tước của vùng Mercia và Northumbria, đã công khai ủng hộ ngài ấy trước công luận; thậm chí ngay cả Stigand, vị Tổng giám mục nổi tiếng yêu nước của vùng Canterbury, cũng thấy nó là một lựa chọn thích hợp…” 



“Thấy cái gì cơ?” Vịt hỏi. 

“Thấy nó ” Chuột trả lời một cách hơi cáu kỉnh, “tất nhiên ông phải biết nó có nghĩa là gì chứ?” 

“Tôi biết thừa nó nghĩa là gì, giống như khi tôi tìm thấy một thứ gì đó,” Vịt nói, “thường là một con ếch, hoặc một con sâu. Cái mà tôi muốn thắc mắc ở đây là, cái ông Tổng giám mục đó đã thấy cái gì?” 

Con Chuột có vẻ như không nghe thấy câu hỏi, và lại tiếp tục kể câu chuyện của mình “ - cũng thấy nó là một lựa chọn thích hợp, khi đi cùng với Edgar Atheling tới gặp William và trao cho ông ngôi báu. Lúc đầu thì thái độ của William khá là ôn hòa, nhưng rồi thì cái thói xấc láo đã ăn sâu vào trong máu những người xứ Normandy như ngài…” Cô cảm thấy thế nào rồi, cô bạn nhỏ?” nó nói, quay về phía Alice. 

“Vẫn ướt như cũ,” Alice nói, giọng sầu muộn. “Nó chẳng có vẻ làm tôi khô đi chút nào cả.” 

“Trong trường hợp đó,” con Đô Đô đứng hẳn dậy, nghiêm nghị nói, “tôi tuyên bố chúng ta tạm hoãn cuộc họp, để tập trung vào giải quyết nhiệm vụ thiết thực ngay trước mắt, đấy là ứng dụng những phương cách chữa trị mãnh liệt và giàu sinh lực hơn cho…” [3]

“Nói cái gì dễ hiểu hơn coi!” con Đại bàng nói. “Tôi không hiểu nổi đến một nửa cái mớ từ mà ông vừa nói, và hơn thế nữa, tôi nghĩ chính ông cũng chẳng hiểu gì nhiều hơn tôi đâu!” Rồi Đại Bàng hơi cúi đầu xuống một chút để cố giấu một nụ cười, vài con chim khác cũng khúc khích cười rõ to. 

“Ý tôi định nói là,” con Đô Đô nói bằng một giọng bị xúc phạm, “cách tốt nhất để chúng ta làm khô người, đấy là mở một cuộc chạy đua.” 

“Chạy đua thế nào cơ?” Alice nói, chẳng phải vì cô bé muốn biết gì thêm về nó, mà bởi con Đô Đô đã ngừng nói lại và đang đợi, như thể nó tin là kiểu gì cũng sẽ có người hỏi, và không ai khác có vẻ muốn nói gì hết. 

“A,” con Đô Đô nói, “tôi tin cách tốt nhất để giải thích là làm thử luôn.” 

Đầu tiên nó vạch ra một đường chạy cho những người tham gia, trông có vẻ khá giống một hình tròn (“hình dạng chính xác không quan trọng”, nó nói), và rồi tất cả đám thú đều đứng dọc theo đường chạy, chỗ này một con, chỗ kia một con khác. Chúng không xuất phát cùng lúc theo kiểu “Một, hai, ba, chạy!”, mà bắt đầu chạy lúc nào chúng thích, và ngừng chạy lúc nào mà chúng muốn, thành ra không dễ gì mà biết được lúc nào thì cuộc đua kết thúc. Tuy nhiên, sau độ nửa giờ chạy, hay cũng khoảng đấy, người chúng đã bắt đầu khô ráo trở lại, và con Đô Đô đột nhiên nói, “Cuộc đua kết thúc!”, thế là tất cả cùng xúm lại quanh nó, ai cũng thở hổn hển và hỏi, “Vậy ai đã thắng?” 

Con Đô Đô đã phải mất một lúc khá là lâu để nghĩ câu trả lời cho câu hỏi này, nó cứ ngồi đó với một ngón tay đặt trên trán (tư thế suy nghĩ mà ta thường thấy ở Shakespeare, trong những bức tranh của ổng), trong khi cả đám còn lại yên lặng chờ đợi. Cuối cùng con Đô Đô nói, “tất cả mọi người đều đã chiến thắng, và tất cả đều phải có phần thưởng.” 

“Nhưng vậy thì ai sẽ trao giải thưởng?” tất cả mấy giọng nói cùng đồng thanh hỏi. 

“Ồ, thì cô ấy chứ ai nữa,” Đô Đô nói, chỉ vào Alice; vậy là cả đám lập tức xúm lại xung quanh cô bé, rồi cứ thế kêu lên, “Phần thưởng! Phần thưởng!”. 

Alice quýnh cả lên, hoàn toàn không biết phải làm gì nữa; trong lúc tuyệt vọng cô bé liền cho tay vào túi tìm kiếm, và lôi ra được một túi kẹo nhỏ (may mắn thay chưa bị nước muối làm hỏng), cô bé liền đem mấy viên kẹo ra làm phần thưởng, cứ mỗi con một viên là cũng vừa vặn hết túi kẹo. 

“Nhưng chính cô ấy cũng phải có một phần thưởng chứ, phải không?” 

“Tất nhiên,” con Đô Đô trang trọng nói. “Cô có còn gì trong túi nữa không, cô bé?” nó nói tiếp, quay sang Alice. 

“Chỉ còn mỗi một cái đế bọc ngón tay[4],” Alice buồn bã đáp. 

“Đưa nó đây nào,” con Đô Đô nói. 

Rồi tất cả chúng lại xúm lại quanh Alice một lần nữa, khi con Đô Đô trang trọng trao tặng phần thưởng, “Xin hãy chấp nhận chiếc đế bọc ngón tay tao nhã này, người chiến thắng”, và khi nó dứt lời, tất cả đám thú cùng reo hò ầm ĩ. 



Alice thấy tất cả những việc này rất chi là buồn cười, nhưng mấy con vật trông trịnh trọng đến nỗi cô bé không thể mở miệng ra cười được - như thế thì thật là không phải phép. Cuối cùng, vì không nghĩ ra được phải nói cái gì vào lúc này, cô bé chỉ đơn giản khom mình cúi chào, và đưa tay đón lấy chiếc đế bọc ngón, làm ra một vẻ trang trọng nhất mà cô bé có thể nghĩ ra được. 

Việc tiếp theo là thưởng thức những chiếc kẹo, việc này đã tạo ra chút tiếng động và một chút lộn xộn nhỏ, khi những con chim lớn cứ than phiền rằng chúng chẳng nếm thấy kẹo có vị gì cả, còn những con nhỏ hơn thì bị nghẹn và những con khác phải vỗ mạnh vào gáy chúng mấy lần liền để chữa. Tuy vậy, cuối cùng rồi cái màn ăn uống đó cũng kết thúc, và tất cả chúng lại ngồi quây quần lại thành một vòng tròn lớn, van nài Chuột ta hãy kể thêm vài câu chuyện nữa đi. 

“Bạn đã hứa sẽ kể cho tôi nghe câu chuyện của mình mà, còn nhớ chứ?” Alice nói. “và cái lý do sao bạn lại ghét, ừm, C và M ấy?” cô bé thì thầm, sợ rằng nó sẽ lại bị xúc phạm lần nữa mất. 

“Chuyện (tale) của tôi dài và buồn lắm!” con Chuột quay sang Alice, buồn bã nói. 

“Cái đuôi (tail) đó thì đúng là dài thật,” Alice nói, nhìn xuống cái đuôi của con Chuột mà thắc mắc. “Nhưng sao lại bảo là nó buồn?”[5]. Và thế là cô bé cứ mải miết nghĩ ngợi về nó, trong khi con Chuột kể câu chuyện của mình, thành ra ý tưởng của cô về câu chuyện đó nó như thế này:[6]



“Cô chẳng tập trung gì cả!” con Chuột gắt lên với Alice. “Cô đang nghĩ đi đâu đấy hả?” 

“Ồ, tôi xin lỗi,” Alice nói, “bạn đã vừa đến khúc uốn thứ năm, tôi nghĩ vậy?” 

“Không hề!” (“ I had not!”), con Chuột giận dữ đáp. 

“Một cái nút buộc á?” (“A knot!”) Alice lo lắng nói, cố tỏ ra là mình cũng có ích ở việc gì đó. “Đây, để tôi giúp bạn gỡ nó ra nào!”[7]

“Tránh xa khỏi tôi ra!” con Chuột nói, đứng dậy và bỏ đi. “Cô đang xúc phạm tôi bằng việc nói những thứ vô nghĩa và vớ vẩn!” 

“Tôi không cố ý mà!” Alice tội nghiệp nói. “Nhưng mà bạn dễ bị xúc phạm lắm đấy, bạn biết chứ?” 

Con Chuột chỉ gầm gừ tức giận chứ chẳng thèm nói lại câu nào. 

“Làm ơn hãy quay trở lại và kể nốt câu chuyện của bạn đi mà!” Alice gọi với theo nó, và mấy con vật khác cũng góp giọng vào gọi, “Đúng, quay lại đi, quay lại đi!”. Nhưng con Chuột kiên quyết lắc đầu, và bước đi còn nhanh hơn trước. 

“Thật tiếc là hắn đã không ở lại!” Vẹt thở dài khi thấy bóng Chuột khuất khỏi tầm mắt, và một bà Cua già liền nhân cơ hội này mà nói với đứa con gái mình, “A, con yêu! Hãy nhớ lấy chuyện này mà làm bài học cho mình, đừng bao giờ nổi nóng nhé! Nhớ chưa?” “Thôi đi mẹ!” Cua con gắt gỏng đáp. “Làm như mẹ thì hiền lành lắm vậy!” 

“Ôi, ước gì có con Dinah ở đây nhỉ, ước gì!” Alice nói to, không có vẻ như đang nói với bất cứ ai ngoài chính cô bé. “Nó sẽ mang được con Chuột đó về ngay!” 

“Và ai là Dinah vậy, nếu tôi được mạn phép hỏi?” con Vẹt thắc mắc. 

Alice trả lời một cách háo hức, bởi lúc nào cô bé cũng sẵn sàng để kể cho mọi người nghe về con thú cưng của mình. “Dinah là con mèo của tôi. Và cô nhóc là một tay bắt chuột cừ lắm đó, cừ đến mức các bạn không tưởng tượng nổi đâu! Và ôi, giá mà các bạn được trông thấy lúc nó đuổi theo lũ chim nhỉ! Chỉ cần bị nó nhìn thấy một phát là con chim đó sẽ bị xơi tái ngay!” 

Mấy câu nói này dường như có một tác động rất mạnh tới đám thú vật. Vài con chim vội kiếm cớ lỉnh ngay đi mất; một con Quạ Khoang già vừa đi vừa nói, “Ta thực sự phải về ngay thôi, chứ không khí ban đêm không hợp với cái cổ họng của ta cho lắm!”, và một con Bạch Yến thì run rẩy gọi đàn con, “Đi thôi nào, các con yêu! Đã sắp tới giờ mấy đứa phải đi ngủ rồi đấy!”. Vì nhiều nguyên cớ khác nhau, các con vật cứ nối đuôi nhau lần lượt bỏ đi hết, và chẳng mấy chốc Alice đã bị bỏ lại chỉ còn có một mình. 

“Ước gì mình đã không nhắc đến con Dinah!” cô bé tự nói với mình bằng một giọng buồn bã. “Có vẻ ở dưới đây chẳng có ai thích nó hết, mà mình thì chắc chắn nó là con mèo tuyệt với nhất trên thế giới mà! Ôi Dinah yêu quý của chị! Không biết chị có còn được gặp lại em nữa không đây?”. Đến đây Alice tội nghiệp lại bưng mặt khóc một lần nữa, bởi cô bé đang cảm thấy hết sức cô đơn và chán nản. Tuy vậy, một lúc sau, cô bé bỗng nghe thấy tiếng bước chân lộp cộp vang đến từ đằng xa, vậy là cô bé lại háo hức ngẩng đầu lên, thầm hy vọng rằng chú Chuột dễ hờn dỗi kia đã đổi ý, và đang quay lại để kể nốt cho cô nghe câu chuyện của mình. 
______________________________

[1] Chơi chữ có dụng ý của tác giả: Từ “dry” trong tiếng Anh vừa có nghĩa là “khô”, vừa có nghĩa là “chán phèo, chẳng có gì thú vị cả”. Ở đây mọi người muốn được “khô” (dry), và thế là Chuột nói sẽ cho mọi người “phát chán lên ngay” (cũng là dry). 

[2] “Đáng chán” và “khô” trong tiếng Anh là hai từ hoàn toàn giống nhau. 

[3] Dịch giả cố ý viết lủng củng và không rõ nghĩa, theo đúng dụng ý của tác giả trong nguyên tác. 

[4] Nguyên bản: “thimble” - một vật nhỏ làm bằng nhựa hoặc sắt, chụp vào đầu ngón tay để tránh bị đau khi kim đâm vào tay (lúc may vá, thêu thùa). 

[5] Trong tiếng Anh, từ “tale” (câu chuyện) và “tail” (cái đuôi) đọc lên nghe giống nhau. Ở đây Alice nhầm tưởng Chuột đang nói về cái đuôi của mình. 

[6] Vì nhiều lý do, đoạn này người dịch xin được… miễn cho việc dịch. 

[7] Nguyên bản Chuột nói: “I had not!”, nghĩa là “Tôi chưa từng làm vậy!”; nhưng Alice lại nghe thành câu: “I had knot!” nghĩa là “Tôi có một cái nút buộc.”; vì từ “not” và “knot” trong tiếng Anh có âm đọc giống nhau.