Thứ Tư, 25 tháng 1, 2012

HAI VỊ PHỤ HUYNH


Khi cô Honey rời khỏi phòng Hiệu trưởng, hầu như tất cả lũ trẻ đều đang nô đùa trên sân trường. Hành động đầu tiên của cô là đi một vòng nói chuyện với tất cả các giáo viên dạy khối Sáu, và mượn họ một số sách giáo khoa vẫn dùng để giảng dạy – sách về đại số, địa lý, tiếng Pháp, văn học Anh và những quyển khác tương tự như thế. Sau đó cô đi tìm Matilda và gọi cô bé vào lớp học. 

“Sẽ chẳng có ích gì cho em,” cô nói: “khi phải ngồi không trong lớp khi cô giảng cho các bạn về những thứ như bảng cửu chương hay cách đánh vần chữ “mèo”. Vậy nên kể từ giờ, cứ mỗi tiết học cô sẽ đưa em một cuốn sách giáo khoa giống thế này để học. Đến cuối tiết đó, nếu có thắc mắc gì thì em có thể lên gặp và hỏi cô, cô hứa sẽ giúp em hết sức có thể. Em thấy sao, Matilda?” 

“Vâng, được ạ.” Matilda nói. “Em cám ơn cô.” 

“Cô chắc chắn,” cô Honey nói tiếp: “là nhà trường sẽ sắp xếp cho em được chuyển lên học cùng các anh chị khối trên sớm thôi, nhưng tạm thời ngay lúc này, cô Hiệu trưởng mong em hãy cứ ở nguyên tại khối Một đã, được chứ?” 

“Dạ vâng, không sao đâu ạ.” Matilda nói. “Cám ơn cô rất nhiều vì đã cho em mượn số sách này ạ.” 

Thật đúng là một đứa bé ngoan ngoãn, cô Honey thầm nghĩ. Mình không quan tâm ba mẹ cô bé nói gì về nó, mình thấy cô bé rất kín đáo và trầm tính đấy chứ! Và nhất là cô bé không có một chút gì gọi là kiêu ngạo cả, mặc cho trí thông minh thiên tài của mình. Thậm chí có vẻ như nó còn chưa nhận ra được mình thông minh đến thế nào nữa ấy. 

Vậy nên khi cả lớp tập trung trở lại, Matilda tới bên chiếc bàn của mình và ngồi đọc một cuốn sách giáo khoa về địa lý mà cô Honey vừa đưa cho bé. Cô Honey cứ vừa giảng vừa dành nửa tâm trí theo dõi Matilda trong suốt cả tiết học, và nhanh chóng nhận ra cô bé chẳng mấy chốc đã hoàn toàn bị cuốn hút vào cuốn sách. Cô bé không hề ngẩng mặt lên khỏi cuốn sách dù chỉ một lần trong suốt cả tiết học. 

Cùng lúc đó, cô Honey đang đưa ra một quyết định. Cô quyết định sẽ tự mình đến thăm và có một cuộc nói chuyện riêng với ba mẹ Matilda càng sớm càng tốt. Cô chỉ đơn giản không thể để mọi chuyện kết thúc như vậy. Cứ để thế thì thật không thể chấp nhận được. Cô không tin hai vị phụ huynh của cô bé lại hoàn toàn không hề biết gì về những tài năng nổi trội và phi thường của con gái mình. Dẫu sao thì ông Wormwood cũng là một người buôn xe rất phát đạt, nên cô nghĩ chắc bản thân ổng cũng phải là một người khá là thông minh. Trong mọi trường hợp, đã làm ba làm mẹ thì ai lại đi đánh giá thấp khả năng của con cái mình bao giờ. Toàn ngược lại thì đúng hơn. Nhiều khi các giáo viên còn gần như chẳng thể thuyết phục nổi một ông bố hay một bà mẹ tin rằng đứa nhóc nhà họ là một đứa ngốc đến hết thuốc chữa. Cô Honey rất tự tin là mình sẽ thuyết phục được ông bà Wormwood rằng Matilda là một cô bé thực sự rất đặc biệt. Rắc rối là ở chỗ làm sao ngăn không cho họ vui mừng quá mức lên mà thôi! 

Và giờ thì hy vọng của cô Honey còn bắt đầu tiến xa hơn nữa. Cô bắt đầu tự hỏi không biết ba mẹ của cô bé có cho phép cô được dạy kèm riêng cho Matilda sau mỗi giờ học ở trên trường hay không? Cái viễn cảnh được kèm cặp một học trò sáng dạ như Matilda làm thôi thúc mãnh liệt bản năng nghề nghiệp của người giáo viên trong cô Honey. Và rồi bất ngờ, cô quyết định sẽ đến nhà ông bà Wormwood ngay tối hôm đó. Cô sẽ căn giờ để đến vào lúc khá muộn, khoảng chín đến mười giờ tối, khi mà bé Matilda chắc chắn đã lên giường đi ngủ. 

Và đó chính xác là những gì mà cô giáo đã làm. Có được địa chỉ từ trong hồ sơ nhập học của Matilda, cô Honey rời nhà để đến thăm gia đình Wormwood vào lúc chín giờ hơn một chút. Cô tìm ra ngay được ngôi nhà, nằm trên một con phố nhỏ ấm cúng, nơi mỗi căn nhà được ngăn cách với những nhà bên bằng một khoảnh vườn nho nhỏ xinh xinh. Ngôi nhà của gia đình bé Matilda được xây bằng gạch theo lối hiện đại, nhìn qua đã biết chắc chắn giá mua không rẻ một chút nào. Ở ngoài cổng có một bảng tên, ghi: “COSY NOOK”[1]. “ ‘Nosey Cook’ [2] nghe có vẻ hợp hơn,” cô Honey thầm nghĩ. Cô có thói quen thích chơi đùa với ngôn từ kiểu như vậy. Cô bước dọc theo vệ cỏ và rồi ấn chuông. Trong lúc chờ đợi, cô có thể nghe thấy rõ ràng tiếng tivi đang kêu oang oang phía bên trong. 

Một người đàn ông nhỏ thó, loắt choắt, có khuôn mặt như một con chuột cùng một hàng ria cũng hệt như râu chuột, mặc một chiếc áo vét màu cam sọc đỏ ra mở cửa cho cô Honey. “Gì vậy?” ổng hỏi, mắt liếc nhìn cô giáo. “Nếu là tiếp thị thì tôi không mua gì đâu.” 

“Không ạ,” cô Honey nói. “Xin lỗi vì đã làm phiền gia đình vào giờ này. Tôi là giáo viên chủ nhiệm của bé Matilda ở trên trường, và tôi có mấy chuyện rất quan trọng cần nói với ông bà về cô bé.” 

“Ha, vừa đi học mà nó đã dính ngay vào rắc rối rồi hả?” ông Worm'wood nói, vẫn đứng chắn lối cửa. “Từ bây giờ nó thuộc trách nhiệm của cô rồi. Cô phải tự xử lý với nó thôi.” 

“Không, không có rắc rối gì cả đâu, thưa ông.” cô Honey nói. “Tôi thậm chí còn có tin rất tốt về cô bé nữa. Vô cùng bất ngờ đấy. Liệu tôi có thể vào nhà và nói chuyện với ông bà vài phút về cô bé được không?” 

“Hiện giờ chúng tôi đang xem dở một chương trình tivi mà tôi rất yêu thích.” ông Wormwood nói. “Bây giờ là lúc bất tiện nhất. Sao cô không quay trở lại đây vào lúc khác nhỉ?” 

Cô Honey bắt đầu mất bình tĩnh. “Ông Wormwood ,” cô nói: “nếu ông nghĩ một chương trình tivi vớ vẩn quan trọng hơn tương lai của con gái mình, thì ông thật không xứng đáng làm một người bố! Sao ông không tắt cái thứ chết tiệt đó đi và nghe thử xem tôi định nói gì?” 

Câu trả lời đó làm ông Wormwood như bị sốc. Ổng không quen bị người ta nói lại với mình bằng một thái độ gay gắt như vậy. Ổng nhìn kỹ lại một lần nữa người phụ nữ dáng mảnh khảnh yếu ớt nhưng kiên quyết đang đứng trước mặt mình. “Thôi cũng được,” sau cùng ổng càu nhàu: “vậy thì vào rồi nói nhanh cho xong đi.” Không cần đợi mời đến câu thứ hai, cô Honey lập tức bước vào trong. 

“Vợ tôi chắc chắn sẽ không cám ơn gì cô về chuyến viếng thăm này đâu,” ông Wormwood làu bàu trong lúc dẫn cô giáo vào trong phòng khách, nơi một người phụ nữ đồ sộ với mái tóc nhuộm bạch kim đang chăm chú dán mắt vào màn hình tivi. 

“Ai đấy?” bả hỏi mà mặt vẫn không hề ngoảnh lại. 

“Cô giáo của con Matilda,” ông Wormwood đáp. “Cô ta nói có mấy chuyện cần bàn với chúng ta về con bé.”. Nói rồi ổng nhoài người tới chỗ cái tivi, tuy nhiên chỉ tắt tiếng đi chứ vẫn để nguyên phần hình ảnh đang chiếu. 

“Đừng làm thế, Harry!” bà vợ kêu lên. “Sắp sửa đến đoạn Willard cầu hôn Angelica rồi!” 

“Thì bà vừa xem vừa nói cũng được,” ông Wormwood nói. “Đây là cô giáo chủ nhiệm của con Matilda. Cô ấy nói có vài chuyện về con bé cần phải thông báo với chúng ta.” 

“Tên tôi là Jenifer Honey,” cô Honey nói. “Bà khỏe chứ, bà Wormwood?” 

Bà Wormwood liếc nhìn cô giáo rồi hỏi: “Thế có chuyện gì vậy?” 

Chẳng có ai thèm mời cô giáo ngồi, vì vậy cô Honey tự chọn lấy một cái ghế và ngồi xuống. “Hôm nay,” cô nói: “là ngày đầu tiên đi học của con gái ông bà.” 

“Chúng tôi biết,” Bà Wormwood đáp, cáu kỉnh vì phải lỡ mất chương trình tivi ưa thích. “Bộ cô đến đây chỉ để nói thế thôi thôi hả?” 

Cô Honey im lặng một lúc để nhìn xoáy sâu vào đôi mắt xám ướt át của bả, và cố ý để khoảng lặng kéo dài ra một lúc đến mức khiến bà ta phải cảm thấy hơi có chút khó xử. “Ông bà có muốn biết lý do tại sao tôi tới đây hôm nay không?” 

“Có, nói đi.” bà Wormwood đáp. 

“Tôi dám chắc là ông bà cũng biết,” cô Honey nói: “những học sinh khối lớp Một không được kỳ vọng là có thể đọc, có thể đánh vần hay biết làm toán trong ngày đầu tiên chúng đến trường. Trẻ con mới có năm tuổi thì không đứa nào làm thế được. Nhưng Matilda lại có thể làm được tất cả những điều đó, một cách xuất sắc nữa là đằng khác. Và tôi tin là…” 

“Còn tôi thì không.” bà Wormwood nói, vẫn còn nhấm nhẳng vì chương trình tivi yêu thích bị gián đoạn. 

“Vậy hẳn là cô bé đã nói dối,” cô giáo nói: “khi trả lời tôi là chưa từng có một ai dạy bé biết đọc hay biết làm toán trước đây. Có ai trong hai vị đã từng dạy đọc cho em ấy trước đây không?” 

“Dạy cái gì cơ?” ông Wormwood nói. 

“Dạy đọc. Đọc sách ấy.” cô Honey nói. “Có thể cô bé đã nói dối. Có thể hai vị đã dạy cho nó từ trước rồi. Có khi ông bà có những giá sách chất kín khắp cả nhà. Có khi ông bà lại là những người cực kỳ đam mê đọc sách ấy chứ.” 

“Tất nhiên là chúng tôi có đọc,” ông Wormwood nói. “đừng có nói ngớ ngẩn thế. Nói cho cô biết, tuần nào tôi cũng đọc cho bằng hết một cuốn tạp chí ‘Ôtô và Xe máy’ đấy!” 

“Cô bé này đã đọc được một lượng sách rất ấn tượng,” cô giáo nói. “tôi chỉ đơn giản băn khoăn không biết có phải liệu cô bé đến từ một gia đình yêu đọc sách hay không?” 

“Chúng tôi không có ưa chuyện đọc sách.” ông Wormwood nói. “Cứ ngồi ị một chỗ mà đọc sách thì liệu có cái mà đút vào mồm không? Trong nhà chúng tôi chẳng chứa cuốn sách nào hết!” 

“Tôi hiểu rồi,” cô Honey nói. “Ưm, tôi đến đây hôm nay chỉ để muốn nói với ông bà là Matilda có một trí thông minh rất tuyệt diệu. Nhưng tôi chắc là ông bà hẳn đã biết điều đó rồi.” 

“Tất nhiên tôi biết là con bé có thể đọc,” bà mẹ nói. “suốt từ hồi nào đến giờ nó chỉ biết có ngồi lỳ trên phòng, cắm mặt vào cái đám sách ngu ngốc ấy.” 

“Nhưng bà không thấy kỳ lạ chút nào sao,” cô Honey nói: “khi một đứa bé mới có năm tuổi có thể đọc được những cuốn tiểu thuyết dài dành cho người lớn như của Dickens hay Hemingway? Chẳng lẽ điều đó không làm cho ông bà thấy vui sướng đến muốn nhảy cẫng lên ư?” 

“Cũng không hẳn,” bà mẹ đáp: “tôi vốn không thích những đứa mọt sách. Một đứa con gái thì chỉ nên nghĩ đến chuyện làm sao cho trông thật đẹp để có thể kiếm được một thằng chồng tốt sau này. Nhan sắc quan trọng hơn là một mớ sách, cô Hunky ạ…” 

“Tên tôi là Honey.” cô Honey nói. 

“Cứ thử nhìn tôi xem,” bà Wormwood nói: “rồi nhìn lại chính cô xem. Cô chọn sách, còn tôi chọn nhan sắc.” 

Co Honey nhìn kỹ người đàn bà to béo với khuôn mặt phèn phẹt mỡ đang ngồi trước mặt mình. “Xin lỗi, bà vừa nói gì cơ?” cô hỏi. 

“Tôi nói cô chọn sách, còn tôi chọn nhan sắc.” bà Wormwood nói. “và cuối cùng thì ai trong chúng ta đã thành ra tốt hơn? Tất nhiên là tôi. Tôi đang ngồi trong một căn nhà đẹp đẽ với chồng là một doanh nhân vô cùng thành đạt, trong khi cô bị bóc lột sức lao động tại một trường tiểu học làng, dạy a b c cho rặt một lũ nhóc hư hỏng.” 

“Quá đúng luôn, cục cưng bé bỏng của anh.” ông Wormwood nói, nhìn vợ bằng một cái nhìn âu yếm đến mức một con mèo nhìn thấy cũng sẽ muốn phát bệnh. 

Cô Honey đã xác định rõ ràng rằng, nếu cô muốn đi đến đâu được với cuộc nói chuyện này thì cô phải nhất thiết không được mất bình tĩnh. “Đấy là tôi vẫn chưa nói hết,” cô tiếp tục. “Matilda, theo những gì tôi được thấy cho đến lúc này, còn đồng thời là một thiên tài về toán học. Cô bé có thể làm phép nhân những con số rất lớn trong đầu cô bé nhanh như chớp.” 

“Giỏi cái đấy thì để làm gì, khi người ta có thể dễ dàng mua một cái máy tính?” ông Wormwood nói. 

“Một đứa con gái sẽ không kiếm được chồng bằng cách học hành với cả thông minh.” bà Wormwood nói. “Cứ nhìn cái cô diễn viên trong phim kia thì biết.” bả nói, chỉ tay vào màn hình tivi, đang chiếu cảnh một cô gái ngực bự và một người đàn ông đang âu yếm ôm nhau dưới ánh trăng. “Cô nghĩ cô ta bẫy được chàng trai kia bằng cách nhân chia cộng trừ trước mặt anh ta đấy hả? Tất nhiên là không. Và giờ thì chàng trai kia sẽ sớm cưới cô ta, cô cứ chờ mà xem có đúng không, và rồi cô ta sẽ đến sống trong một biệt thự sang trọng, với quản gia và vô số kẻ hầu người hạ!” 

Cô Honey gần như không thể tin được những gì mình vừa nghe thấy. Cô đã nghe kể về những kiểu ba mẹ như thế này có đầy rẫy ở khắp mọi nơi, và những đứa con của họ rốt cục đều sớm bỏ học và trở thành tội phạm cả; nhưng cô vẫn rất sốc khi được gặp tận mặt những người như vậy bằng xương bằng thịt. 

“Vấn đề của bé Matilda bây giờ,” cô nói, tiếp tục cố gắng thêm một lần nữa. “là cô bé đã bỏ xa tất cả các bạn học cùng lứa xung quanh mình, đến mức thực sự đáng để cân nhắc cho cô bé được kèm học riêng theo cách đặc biệt. Tôi thực sự tin rằng với một phương pháp giảng dạy đúng đắn, cô bé có thể dễ dàng đạt tới trình độ Đại học chỉ trong khoảng hai đến ba năm.” 

“Đại học á?” ông Wormwood kêu to, nhảy dựng lên khỏi chiếc ghế bành của mình. “Ai lại muốn đi học đại học cơ chứ? Tất cả những thứ chúng học được ở đó chỉ toàn là những thói hư tật xấu!” 

“Hoàn toàn không phải như vậy,” cô Honey nói. “Nếu ông bị một cơn đau tim và phải gọi cho bác sĩ, thì vị bác sĩ đó sẽ phải là một người đã tốt nghiệp đại học. Nếu ông bị ai đó kiện vì đã bán cho họ một cái xe dỏm, ông sẽ phải nhờ đến luật sư, và vị luật sư đó cũng cần phải học qua trường đại học. Xin đừng có coi thường những người thông minh, thưa ông Wormwood. Nhưng tôi có thể thấy cuộc nói chuyện này của chúng ta sẽ không đi tới đâu được cả, phải không? Xin lỗi vì đã làm phiền ông bà vào lúc muộn thế này. Tôi xin phép.” Cô Honey nói rồi đứng dậy khỏi ghế và rời căn phòng. 

Ông Wormwood theo cô ra đến tận cửa và nói: “Thật quý hóa vì cô đã đến thăm, cô Hawkes. Hay là cô Harris nhỉ?” 

“Cả hai đều không phải,” cô Honey nói. “Nhưng thôi bỏ đi, đừng bận tâm.” Nói rồi cô quay mặt bước đi. 
_________________________________

[1] Đọc là Câu-di Núc”, có nghĩa là “góc nhà ấm áp” 

[2] Đọc là “Nâu-di Cúc”, là cách đọc lái về âm của cụm từ “Cosy Nook”

Chủ Nhật, 22 tháng 1, 2012

HIỆU TRƯỞNG TRUNCHBULL


Đến giờ giải lao, cô Honey vội vã rời phòng học và đến thẳng văn phòng của cô Hiệu trưởng Trunchbull, với một cảm giác vô cùng phấn khích trong lòng. Cô vừa mới gặp một cô bé con mới chỉ có năm tuổi, nhưng đã sở hữu những phẩm chất của một thiên tài! Vẫn chưa có đủ thời gian để biết xem cô bé này thông minh đến đâu, nhưng cũng đã đủ để cô Honey nhận ra: nhà trường cần phải làm gì đó với trường hợp đặc biệt này. Sẽ thật là nực cười nếu cứ để một học sinh xuất sắc như thế kẹt ở khối Một được. 

Lúc bình thường thì cô Honey rất sợ Hiệu trưởng Trunchbull, và luôn cố tránh xa mụ hết mức có thể; nhưng lúc này cô có cảm giác mình có thể đối mặt với bất cứ ai. Cô gõ cửa văn phòng Hiệu trưởng; và cái giọng nói kinh khủng của hiệu trưởng Trunchbull vang lên: “Vào đi!”. Cô Honey bước vào. 

Hầu hết các giáo viên được lựa chọn làm Hiệu trưởng là bởi họ có những phẩm chất tuyệt vời cần có của một người giáo viên. Họ thấu hiểu trẻ em và thực lòng quan tâm đến chúng. Họ dễ cảm thông. Họ đối xử công bằng với tất cả các học sinh, và họ thực sự quan tâm đến việc giáo dục. Hiệu trưởng Trunchbull chẳng đáp ứng nổi một điều nào trong những phẩm chất trên, và làm thế nào bà ta được chọn làm Hiệu trưởng thì vẫn mãi là một điều bí ẩn. 

Mụ ta là loại người khủng khiếp nhất trong các loại khủng khiếp. Trước đây mụ từng là một vận động viên thể thao nổi tiếng, đến tận bây giờ bắp tay bắp chân của mụ vẫn nổi lên cuồn cuộn. Cơ bắp cuộn lên ở khắp nơi, ở cái cổ như cổ bò mộng, ở hai bờ vai rộng, ở hai cánh tay chắc nịch, ở cổ tay nổi đầy gân guốc, và ở đôi chân mạnh mẽ có thể nện những bước ầm ầm làm rung chuyển cả hành lang. Nhìn mụ giống loại người có thể dễ dàng làm những việc như bẻ cong một thanh sắt hay xé đôi một cuốn danh bạ điện thoại. Khuôn mặt của mụ thì, có thể nói không ngoa là không hề có chút gì gọi là nhan sắc hay vui vẻ gì đọng được trên đó hết. Chỉ có một cái cằm vênh ra rất ngoan cố, một cái miệng độc địa, và một đôi mắt bé tin hin đầy kiêu ngạo. Và còn quần áo của mụ thì… chúng, dẫu có nói nhẹ đi hết mức có thể, cũng vô cùng là cổ quái. Lúc nào mụ cũng bận một cái áo khoác vải lớn màu nâu; quấn chặt quanh người bằng một cái dây lưng da to bản với một cái móc khóa cũng to không kém bằng bạc. Cặp đùi to tướng thò ra bên dưới chiếc áo được bó chặt lấy bằng một chiếc quần bó ngắn kiểu ống túm[1] làm bằng vải thô màu xanh lá cây. Lai quần chỉ ngắn đến dưới gối một chút, và từ chỗ đó trở đi, mụ đi một đôi tất bó màu xanh lá cây với đầu ống tất cuốn lại; càng làm tôn lên những khối cơ bắp hoàn hảo cuộn lên nơi bắp chân mụ. Dưới chân mụ là một đôi giầy da đế bằng lớn, màu nâu. Tóm lại, trông mụ có giống một kẻ săn chó quái dị hơn là giống Hiệu trưởng của một ngôi trường dành cho trẻ em. 

Khi cô Honey bước vào văn phòng, hiệu trưởng Trunchbull đang đứng cạnh chiếc bàn giấy khổng lồ của mình với một vẻ mặt rất thiếu kiên nhẫn. “Vâng, cô Honey,” mụ nói. “Cô muốn gì? Trông mặt cô đỏ rực lên thế kia, có phải bọn ranh con vừa mới vào lớp đã bày trò nghịch phá gì đúng không?” 

“Không đâu, cô Hiệu trưởng, không có chuyện đó đâu.” 

“Thế có chuyện gì nào? Nói nhanh lên, ta còn bận lắm.” Vừa nói, mụ vừa với tay rót một ly nước từ một chiếc bình lúc nào cũng được đặt trên bàn. 

“Có một học sinh trong lớp tôi, tên là Matilda Wormwood , và em ấy…” 

“À, đó là con gái của ông chủ hiệu ô tô cũ Wormwood trong làng,” hiệu trưởng Trunchbull nói như quát. Mụ gần như chưa bao giờ nói năng với ai mà giữ được mức âm lượng bình thường. Lúc nào cũng hoặc là hét, hoặc là nói như quát vào mặt người ta: “Một gã rất tốt, cái lão Wormwood ấy.” mụ nói tiếp. “Ta vừa mới ở chỗ lão ngày hôm qua. Lão bán cho ta một cái xe đã qua sử dụng gần như còn mới nguyên, mới đi được có mười ngàn dặm. Chủ trước của cái xe là một mụ già cả năm mới lấy xe ra đi có một lần. Một món hời đấy chứ, đúng không? Phải, ta khoái cái lão Wormwood ấy lắm. Những người trung thực như hắn là những kẻ rất đáng kính trọng trong cái xã hội bây giờ. Lão cũng nhắc ta về đứa con gái hư đốn của lão nữa. Lão nói phải nên đặc biệt để mắt đến nó, và nếu mà có chuyện gì xấu xảy ra thì chắc chắn là do con nhãi con đó gây nên. Ta vẫn chưa gặp con bé, nhưng cứ gặp tôi là con ranh đó sẽ biết tay ngay. Ông bố nó nói con bé là một đứa hư hỏng thực sự.” 

“Ôi không đâu cô Hiệu trưởng, không phải như thế đâu!” cô Honey kêu lên. 

“Ồ, phải chứ cô Honey, chắc chắn là đúng rồi. Mà giờ nghĩ lại thì, ta dám cá chính con nhãi đó đã bỏ bom thối vào hộc bàn trong văn phòng ta sáng nay. Khắp cả cái phòng thối um lên như một cái nhà xí! Chắc chắn chính là nó rồi! Ta sẽ trừng trị nó đích đáng, rồi cô xem! Con bé đó như thế nào? Chắc chính nó là đứa quậy phá, hư hỏng nhất lớp, đúng không? Cô Honey, có một điều mà ta đã nghiệm ra sau suốt bao nhiêu năm giảng dạy, đấy là bọn con gái mà hư thì còn nguy hiểm hơn lũ con trai hư rất nhiều. Mà hơn nữa, rất là khó để mà bắt tận tay được bọn chúng. Bọn nó cứ như lũ ruồi ấy, cứ thò tay ra là lại biến mất ngay. Con gái chỉ rặt là một lũ bẩn thỉu, hư đốn và nghịch ngợm. Thật tốt là ta chưa bao giờ phải là con gái.” 

“Ô, nhưng cô Hiệu trưởng à, chắc chắn cô cũng đã từng phải là một bé gái chứ?” 

“Chỉ trong một thời gian ngắn thôi,” hiệu trưởng Trunchbull nghiến răng đáp. “Ta lớn nhanh lắm.” 

Bà ấy hoàn toàn mất tỉnh táo rồi, cô Honey thầm nghĩ. Bả đã phát điên rồi. Thế nhưng cô Honey vẫn kiên quyết đứng trước mặt Hiệu trưởng Trunchbull, riêng lần này cô sẽ không để mình bị cổ dọa nạt nữa. “Tôi phải nói với cô, thưa Hiệu trưởng,” cô Honey nói: “là cô đã hoàn toàn sai lầm khi buộc tội Matilda đã đặt bom thối vào ngăn bàn cô.” 

“Ta chưa bao giờ nói sai hết, thưa cô Honey!” 

“Nhưng cô Hiệu trưởng à, con bé chỉ vừa mới đến trường lần đầu lúc sáng nay, và đã đến thẳng ngay lớp học…” 

“Lạy Chúa, đừng có tranh cãi với ta về cái con bé đó nữa! Cái con nhãi con Matilda, hay bất cứ tên nó là gì đi nữa, chính nó đã bỏ bom thối vào văn phòng ta! Không còn nghi ngờ gì nữa! Cám ơn cô vì đã gợi ý, cô Honey.” 

“Nhưng tôi đâu có gợi ý cái gì đâu, thưa cô Hiệu trưởng!” 

“Tất nhiên là cô đã gợi ý chuyện đó rồi! Nào, giờ thì cô cần gì đây, cô Honey? Sao nãy giờ cô cứ làm phí phạm thời gian của ta thế?” 

“Tôi đến đây để nói với cô về cô bé Matilda đó, thưa Hiệu trưởng. Tôi có những thứ rất kỳ lạ cần phải báo cáo với cô về cô bé đó. Để tôi kể cho cô nghe chuyện gì vừa xảy ra trong lớp tôi dạy sáng nay nhé?” 

“Chắc con bé đó đã đốt váy và giày cô, đúng không?” hiệu trưởng Trunchbull khịt mũi. 

“Không, không!” cô Honey kêu lên. “Cô bé Matilda đó là một thiên tài thực sự!” 

Ngay lúc cô Honey nói ra từ đó, thiên tài, khuôn mặt của hiệu trưởng Trunchbull lập tức chuyển sang màu tím, và cả người mụ dường như trương phồng lên như một con ếch đương phùng mang. “Một thiên tài!” mụ quát lên. “Cô đang nói cái vớ vẩn gì đấy, thưa cô? Cô có mất trí không đấy?! Chính ba con bé đã nói với ta, con bé đó là một đứa bất hảo, một đứa găng-xtơ thực sự!” 

“Ông ấy hẳn đã sai về cô bé đó, thưa cô.” 

“Đừng có nói những chuyện ngu ngốc, cô Honey. Cô mới chỉ biết con bé đó được có hơn nửa tiếng, trong khi ba con bé thì đã biết nó kể từ khi nó mới lọt lòng!”  

Nhưng cô Honey đã quyết tâm phải nói cho đến cùng, và cô bắt đầu kể cho Hiệu trưởng Trunchbull nghe một vài trong số những điều kỳ diệu mà Matilda đã thể hiện trên lớp ở môn Toán. 

“Vậy là nó đã thuộc được một vài bảng cửu chương chứ gì?” Hiệu trưởng Trunchbull nói như quát. “Cô giáo yêu quý ơi, cái đó không làm nó trở thành một thiên tài! Nó chỉ đơn giản là một con vẹt, thế thôi!” 

“Nhưng cô Hiệu trưởng à, cô bé còn còn biết đọc nữa!” 

“Thì ta cũng biết đọc vậy!” hiệu trưởng Trunchbull nói to. 

“Theo tôi nghĩ,” cô Honey nói: “chúng ta nên cho Matilda được chuyển khỏi khối Một và lập tức xếp em ấy vào khối Sáu, cùng với các em mười một tuổi.” 

“Ha!” hiệu trưởng Trunchbull reo lên. “Vậy thực ra là cô chỉ muốn tống khứ con nhóc đó đi thôi, đúng không? Cô không quản nổi nó, đúng không? Thế nên bây giờ cô mới muốn tống nó sang cho cô Plimsoll khốn khổ trên khối Sáu, nơi nó sẽ còn bày ra nhiều trò quậy phá hơn nữa chứ gì?” 

“Không, không!” Cô Honey kêu lên. “Đó hoàn toàn không phải là lý do tại sao tôi đến đây!” 

“Ồ không, chính là thế đấy!” hiệu trưởng Trunchbull hét lên. “Ta có thể nhìn thấu ngay cái mưu đồ nho nhỏ của cô đấy, thưa cô! Và câu trả lời của ta là không! Matilda sẽ ở ngay chỗ mà nó đang ở bây giờ, và việc quản lý nó chính là của cô, chứ không phải của bất cứ ai khác!” 

“Nhưng thưa cô Hiệu trưởng, xin hãy…” 

“Không phải nói thêm một lời nào nữa!” hiệu trưởng Trunchbull quát lên. “Và hơn nữa, ta đã đề ra luật ở cái trường này là tất cả học sinh phải ở đúng nhóm tuổi của mình, bất kể năng lực của nó có ra sao! Lạy Chúa, ta sẽ không để một con nhãi con năm tuổi hư hỏng được ngồi cùng lớp với các học sinh cuối cấp trên khối Sáu đâu!” 

Cô Honey chỉ còn cách đứng đó, bất lực trước một tên khổng lồ ngu ngốc và cố chấp như thế này. Cô còn muốn nói rất nhiều nữa, nhưng cô biết có nói thêm gì thì cũng vô dụng. Cô đành nhẹ nhàng nói: “Vâng, tất cả quyết định là ở cô, thưa Hiệu trưởng.” 

“Cô biết thế là tốt. Và đừng quên, thưa cô, là chúng ta đang nói đến một con rắn độc đã lén lút bỏ bom thối vào văn phòng của ta…” 

“Cô bé không hề làm thế, thưa cô Hiệu trưởng!” 

“Chính nó đã làm thế!” Hiệu trưởng Trunchbull đột nhiên hét to. “Và nói cho cô biết, ta ước gì mình vẫn được phép dùng roi gỗ với dây lưng để dạy dỗ bọn nó như ngày xưa! Ta sẽ cho con bé đó một trận quắn đít lên, đến nỗi cả tháng sau nó cũng sẽ không ngồi được!” 

Cô Honey quay người và lặng lẽ bước ra khỏi văn phòng Hiệu trưởng, thất vọng, nhưng không hề có cảm giác bị đánh bại. Tự mình sẽ làm gì đó để giúp cô bé, cô tự nhủ với chính mình. Mình không biết chính xác sẽ phải làm gì, nhưng chắc chắn mình sẽ tìm ra được cách để giúp cô bé đó. 
________________________________

[1] Nguyên bản: “breeches” - quần ống túm, một loại quần ngắn, bó lại ở dưới gối. Chú ý: Khác với “riding breeches” là quần dài, ôm chặt lấy ống chân chuyên dùng cho những người cưỡi ngựa; “breeches” thường chỉ ngắn đến quá đầu gối một chút, và cũng chỉ bó phần dưới gối chứ không phải toàn bộ.

Thứ Tư, 18 tháng 1, 2012

CÔ HONEY


Bé Matilda bắt đầu tới trường hơi muộn hơn so với các bạn cùng lứa. Hầu hết mọi đứa trẻ khác sẽ bắt đầu học tiểu học khi đã lên năm, có khi còn sớm hơn; thế nhưng ba mẹ Matilda, những người chẳng hề có chút quan tâm nào tới việc học hành của cô con gái, đã quên bẵng đi mà không sắp xếp việc xin nhập học cho con mình từ sớm. Lần đầu tiên Matilda được bước vào trường tiểu học, cô bé đã năm tuổi rưỡi. 

Ngôi trường nhỏ trong làng, nơi cô bé theo học, là một tòa nhà nhỏ bằng gạch có tên Trường Tiểu Học Crunchem Hall. Ngôi trường có khoảng hai trăm năm mươi học sinh, từ năm cho đến mười hai tuổi. Người Hiệu trưởng, vị sếp, vị thủ lĩnh tối cao của tổ chức có tên là hiệu trưởng Trunchbull, một người phụ nữ tuổi trung niên đầy quyền lực và vô cùng đáng sợ. 

Matilda được xếp vào khối lớp Một, nơi có mười tám bạn nữa cũng cùng tuổi với cô bé. Giáo viên chủ nhiệm của các cô cậu bé này là một cô giáo trẻ tên là Honey. Cô Honey; nhìn kiểu gì thì cũng không thể hơn hai ba, hai tư tuổi được; có một khuôn mặt trái xoan rất đẹp, với một đôi mắt xanh và một mái tóc màu hơi hơi nâu nhạt. Trông cô rất mỏng manh và yếu ớt, đến nỗi khiến cho người ta có cảm giác là nếu chẳng may bị trượt chân ngã, cô sẽ lập tức vỡ tan ra ngay thành cả trăm ngàn mảnh, hệt như khi người ta đánh rớt một bức tượng đẹp đẽ làm bằng pha lê. 

Cô Jenifer Honey là một người rất dịu dàng và trầm tính; cô chưa bao giờ lên giọng với bất cứ ai, và cũng rất hiếm khi cười; nhưng cô luôn chiếm được cảm tình của tất cả những học sinh bé nhỏ được cô chăm sóc. Cô dường như có thể hiểu rất rõ nỗi bối rối và sợ sệt của các bé khi lần đầu tiên ngồi trong lớp học và được dạy phải tuân theo nề nếp. Vẻ ấm áp và sự dịu dàng như hiện rõ trên gương mặt cô mỗi khi cô nhẹ nhàng nói chuyện với một cô hay cậu học sinh mới chuyển đến, hãy còn bỡ ngỡ và chỉ muốn về nhà. 

Hiệu trưởng Trunchbull, giáo viên Hiệu trưởng trường, thì lại hoàn toàn ngược lại; một con quái vật hung dữ và bạo ngược; nỗi khiếp sợ của tất cả học sinh và cả các giáo viên nữa. Có thể cảm thấy rõ sự nguy hiểm đang đến thậm chí từ khi mụ còn đang ở cách ta một quãng xa; và khi mụ đến gần, người ta gần như có thể thấy rõ nguy hiểm đang chực trào ra như hơi nóng toát ra từ một cái nồi sắt nung đang réo ùng ục. Khi mụ bước dọc theo hành lang - không như người thường bước, mà lúc nào cũng nện gót ầm ầm xuống mặt sàn như cả một quân đoàn đang diễu binh - người ta có thể nghe thấy rõ cả tiếng khịt mũi của mụ; và nếu có đám trẻ nào chẳng may đang xớ rớ trên đường đi, mụ sẽ không ngần ngại mà tông thẳng vào chúng như một cái xe tăng nghiến nát địch thủ, gạt tung hết bọn trẻ sang hai bên trái, phải để lấy lối mà bước đi. Phải tạ ơn trời đất là chúng ta không hay phải gặp những người như mụ; mặc dù cũng có những người như thế có tồn tại trên thế giới này thật, và trong suốt cuộc đời mỗi chúng ta đều có cơ hội sẽ gặp phải ít nhất là một kẻ trong số họ. Nếu có bao giờ gặp, điều tốt nhất mà các bạn nên làm là hành xử như khi bạn gặp phải một con tê giác điên đang lồng lộn chạy ra từ một bụi cây - lập tức leo lên một cái cây cao ở gần bạn nhất, và cứ ở yên trên đó, đợi đến khi nào nó đi khuất đi rồi hẵng tụt xuống. Người phụ nữ này, cả về diện mạo lẫn tính cách, đều gần như không thể diễn tả nổi bằng lời; tuy nhiên tôi cũng sẽ thật cố gắng để làm được điều đó trong những chương tiếp theo. Giờ chúng ta hãy cùng quay trở lại với Matilda và tiết học đầu tiên của bé ở trường với cô Honey. 

Sau khi đã điểm danh xong toàn bộ các học sinh, cô Honey bê lên một chồng sách mới và phát cho mỗi bạn một quyển. 

“Cô chắc là các em đều có mang bút chì theo rồi chứ?” cô hỏi. 

“Vâng ạ!” cả lớp đồng thanh đáp. 

“Tốt lắm. Hôm nay là ngày đầu tiên tới trường của các em, và cũng sẽ là khởi đầu cho ít nhất là mười một năm học tiếp theo mà các em sẽ phải trải qua trong suốt đời học sinh của mình. Sáu năm đầu tiên trong đó các em sẽ được học ở ngay đây, tại trường Crunchem Hall này; nơi mà như các em đã biết, có Hiệu trưởng là cô Trunchbull. Có một số điều về cô Trunchbull mà cô muốn các em phải ghi nhớ cho thật kỹ, vì chính lợi ích của các em thôi. Thứ nhất, đó là cô Truchball đặc biệt nghiêm khắc trong việc đảm bảo kỷ luật nơi trường học, nên các em nhớ phải thật ngoan khi ở gần cô ấy, được chứ? Không được tranh luận với cổ. Không được cãi lại cổ. Luôn luôn làm theo những gì mà cô ấy nói. Còn nữa, nếu có ai trong các em mà đứng chắn đường cô Trucnchball, cô ấy có thể sẽ nghiến cho các em nát ra như cám. Cô nói thật đấy, và Lavender, đó không phải là thứ đáng để cười đâu! Và tất cả các em phải nhớ kỹ là, cô Trunchbull chắc chắn sẽ không tha thứ cho bất cứ ai vi phạm nội quy của trường đâu đấy. Các em đã rõ cả chưa?” 

“Thưa cô rồi ạ!” cả mười tám học sinh cùng reo lên. 

Cô Honey nói tiếp: “Cô sẽ cố gắng hết sức để giúp các em có thể học được nhiều nhất có thể khi các em ở trong lớp của cô. Đấy là vì càng học tốt từ bây giờ, sau này lên cao các em sẽ càng học dễ dàng hơn. Ví dụ, cô hy vọng rằng đến cuối tuần này, tất cả chúng ta sẽ đều thuộc nằm lòng bảng cửu chương hai. Và cứ thế trong vòng một năm, cô muốn các em sẽ có thể thuộc lòng các phép nhân cho đến tận bảng cửu chương mười hai[1]. Học tốt bảng cửu chương sẽ giúp cho các em rất nhiều sau này đấy. Được rồi, giờ thì có ai ở đây đã học đến bảng cửu chương hai rồi không?” 

Matilda liền giơ tay lên. Và cô bé là người duy nhất trong lớp làm thế. 

Cô Honey cẩn thận nhìn kỹ cô bé với mái tóc đen và một khuôn mặt tròn rất nghiêm túc đang ngồi ở dãy bàn thứ hai từ trên xuống. “Tốt lắm.” cô nói: “em có thể đứng lên và đọc lại cho lớp những gì em đã học được không?” 

Matilda đứng dậy và bắt đầu đọc vanh vách bảng cửu chương hai. Nhưng cô bé vẫn không dừng lại khi đã đọc đến hai lần mười hai là hai mươi bốn. Cô bé đọc tiếp luôn hai lần mười ba là hai mươi sáu, hai lần mười bốn là hai mươi tám, hai lần mười lăm là ba mươi, rồi… 

“Được rồi, em dừng lại chút nào!” cô Honey nói. Nãy giờ cô dường như đã hết sức chăm chú lắng nghe những lời đọc vanh vách, trôi chảy của Matilda. “Em còn đọc tiếp được đến bao nhiêu nữa?” cô hỏi. 

“Đến bao nhiêu ấy ạ?” Matilda nói. “Ưm, em cũng không biết nữa ạ. Chắc là cũng khá lớn, em nghĩ thế.” 

Cô Honey khựng lại một chút vì ngạc nhiên. “Ý em là,” cô nói: “em có thể biết hai lần hai mươi tám là bao nhiêu à?” 

“Vâng, thưa cô.” 

“Vậy em nói cho cô biết được không?” 

“Dạ, là năm mươi sáu, thưa cô.” 

“Ưm, vậy còn số nào đó lớn hơn nữa thì sao, như hai lần của bốn trăm tám mươi bảy chẳng hạn? Em có biết nó là bao nhiêu không?” 

“Dạ có, thưa cô.” 

“Em nói thật đấy chứ? 

“Dạ vâng, thưa cô, em chắc chắn mà!” 

“Được rồi, vậy em nói cô nghe, hai lần của bốn trăm tám bảy là bao nhiêu?” 

“Dạ, là chín trăm bảy mươi tư.” Matilda trả lời ngay tức khắc. Cô bé nói với cô giáo một cách rất nhẹ nhàng và lễ phép, không có chút gì tỏ ra khoe khoang, khoác lác cả. 

Cô Honey nhìn thẳng vào Matilda, mắt mở lớn vì ngạc nhiên. Nhưng sau đó, cô lấy lại ngay mức giọng bình thường của mình và nói: “Tuyệt lắm!” cô nói. “Nhưng tất nhiên, nhân với hai thì vẫn dễ hơn nhiều so với phép nhân của những số khác to hơn. Vậy còn những bảng cửu chương khác thì sao? Em đã học qua đến những bảng đó chưa?” 

“Dạ, em nghĩ là rồi, thưa cô.” 

“Những bảng nào vậy, Matilda? Em đã học đến bảng nào rồi?” 

“Em… em cũng không biết nữa ạ.” Matilda nói. “Em không hiểu lắm ý cô hỏi là gì?” 

“Ừm, thì thí dụ như là em có biết bảng cửu chương ba không?” 

“Dạ có, thưa cô.” 

“Cả bảng cửu chương bốn nữa?” 

“Dạ vâng ạ.” 

“Ôi, vậy em biết đến đâu rồi, Matilda? Em có biết đến hết tận bảng cửu chương mười hai không?” 

“Dạ có ạ.” 

“Vậy mười hai lần bảy là bao nhiêu?” 

“Tám mươi tư ạ.” Matilda đáp. 

Cô Honey dừng lại, rồi ngả người ra ghế, sau chiếc bàn giáo viên đặt ở ngay chính giữa bục giảng. Cô dường như bị sốc trước những gì vừa chứng kiến, nhưng không để lộ nó ra ngoài. Cô chưa bao giờ gặp một đứa bé nào mới có năm tuổi, hay thậm chí là mười tuổi, lại có khả năng tính toán nhanh được đến thế. 

“Hy vọng là tất cả các em vẫn đang nghe bạn nói nãy giờ.” cô nói với cả lớp. “Bạn Matilda đã rất may mắn, khi có ba mẹ đã sẵn sàng bỏ thời gian dạy bạn ấy phép nhân những số lớn. Nói cô nghe Matilda, có phải mẹ em đã dạy em làm phép tính nhân không?” 

“Dạ không thưa cô, không phải mẹ em đâu ạ.” 

“Vậy chắc em có một người bố tuyệt lắm. Ông ấy hẳn phải là một giáo viên rất giỏi.” 

“Dạ không đâu thưa cô.” Matilda nói. “Ba em chưa có dạy em bao giờ hết.” 

“Vậy ý em là em đã tự học tất cả sao?” 

“Em cũng không biết nữa…” Matilda thành thật nói. “Chỉ là em chẳng thấy có gì khó khăn khi nhân số này với số khác cả.” 

Nghe đến đây, cô Honey liền hít một hơi thật sâu, rồi từ từ thở hắt ra một cách chậm rãi. “Không có gì khó khăn khi nhân số này với số khác,” cô nói: “liệu em có thể giải thích kỹ hơn một chút cho cô và các bạn được không?” 

“Ư… ưm…” Matilda ấp úng. “Em cũng không biết là tại sao lại thế nữa.” 

Cô Honey như dừng lại đôi chút để nghĩ. Cả lớp học đều im phăng phắc, tất cả đều đang chăm chú lắng nghe. 

“Ví dụ như là,” cô Honey nói: “nếu cô hỏi em mười bốn nhân với mười chín là… không, cái đó thì khó quá…” 

“Dạ, hai trăm sáu mươi sáu ạ.” cô bé nhẹ nhàng đáp. 

Cô Honey nhìn chằm chằm vào bé Matilda. Rồi cô nhặt một mẩu bút chì lên và nhanh chóng ghi lại phép toán lên một tờ giấy. Rồi cô ngẩng lên và hỏi. “Em vừa nói là bao nhiêu cơ?” 

“Hai trăm sáu mươi sáu ạ.” Matilda đáp. 

Cô Honey từ từ đặt mẩu bút chì của mình xuống, gỡ cặp kính đang đeo ra và bắt đầu lau lại hai mắt kính bằng một chiếc khăn nhỏ. Tất cả các học sinh trong lớp vẫn tuyệt đối giữ yên lặng, chờ đợi xem điều gì sẽ xảy đến tiếp theo. Matilda thì vẫn đứng nguyên tại chỗ, bên cạnh chiếc bàn của mình. 

“Nói cô nghe nào, Matilda,” cô Honey nói, vẫn đang lau kính: “thứ gì đã diễn ra trong đầu em khi em làm một phép tính khó như vậy? Em chắc chắn cũng phải tính toán theo một cách nào đấy chứ, đúng không? Nhưng em lại có thể đưa ra câu trả lời gần như là ngay tức khắc. Cứ lấy ví dụ ngay cái phép tính em vừa mới làm ấy, mười bốn nhân với mười chín. Em đã làm như thế nào vậy?” 

“Em… em… em chỉ đơn giản là ghi con số mười bốn vào đầu, rồi nhân nó lên mười chín lần thôi,” Matilda nói. “Em không biết cách nào khác để giải thích nó nữa. Lúc nào em cũng tự nói với mình là, nếu một cái máy tính bỏ túi bé xíu còn có thể làm được, thì cớ gì mà mình lại không thể?” 

“Ừ, đúng, sao lại không thể?” cô Honey nói. ‘Bộ óc con người vốn là một thứ rất kỳ diệu mà.” 

“Em nghĩ nó chắc chắn phải tốt hơn mấy miếng sắt đó chứ,” Matilda nói. “Rốt cục cái máy tính cũng chỉ là mấy miếng sắt ghép lại thôi mà.” 

“Em nói đúng đấy,” cô Honey nói. “Và dù sao thì các em cũng không được phép dùng máy tính ở trường đâu.” Cô Honey giờ đã hoàn toàn chắc chắn rằng mình vừa mới gặp một bộ óc với khả năng tính toán thực sự phi thường; và những từ ngữ như “thần đồng” hoặc “thiên tài” liên tiếp xuất hiện trong tâm trí cô. Cô cũng biết là những người kỳ diệu như thế này thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trên thế giới, vào lúc này hay lúc khác; nhưng cả mấy trăm năm cũng mới chỉ có một hoặc hai trường hợp như thế mà thôi. Mozart cũng chỉ mới năm tuổi khi ông ấy bắt đầu sáng tác bản nhạc đầu tiên trên chiếc piano, và hãy nhìn xem ông ấy đã tiến xa được đến đâu kìa. 

“Thật không công bằng,” Lavender nói: “sao bạn ấy làm được mà chúng em lại không chứ?” 

“Đừng lo, Lavender, rồi các em sẽ sớm bắt kịp bạn ấy thôi.” cô Honey đáp, mặc dù thừa biết là chuyện đó còn lâu mới xảy ra thật. 

Lúc này, cô Honey không thể cưỡng lại ham muốn được tìm hiểu thêm nữa về cô bé kỳ lạ đang ngồi trước mặt mình. Cô biết là cô nên để tâm tới cả những học sinh khác trong lớp nữa, nhưng cô đang quá háo hức để có thể nghĩ đến thứ gì khác được. 

“Thôi được,” cô nói, giả vờ như là đang nói với cả lớp: “hãy tạm dẹp toán sang một bên và chuyển sang môn đánh vần đã nhé. Em nào có thể đánh vần được chữ “mèo” thì giơ tay lên nào!” 

Ba cánh tay giơ lên. Chúng thuộc về Lavender, một cậu bé tên là Nigel, và Matilda. 

“Vậy, Nigel, em thử đánh vần chữ ‘mèo’ xem nào!” 

Nigel đứng dậy và đánh vần chữ “mèo” cho cả lớp. 

Cô Honey quyết định sẽ hỏi một câu hỏi mà lúc bình thường, có mơ cô cũng không bao giờ nghĩ có thể đem ra hỏi các học sinh lớp Một trong ngày đầu tiên chúng đi học. “Cô đang tự hỏi,” cô nói: “không biết có ai trong ba em có thể đọc được nhiều từ một lúc, khi chúng đã được viết thành một câu hoàn chỉnh hay không?” 

“Em ạ.” Nigel nói. 

“Cả em nữa.” Lavender nói. 

Cô Honey bèn lấy một viên phấn và viết lên bảng dòng chữ sau: “Em đã được học cách đọc các câu dài từ trước khi đến trường.” Cô đã cố ý viết một câu thật khó, mà cô biết là trên khắp cả thế giới này, chỉ có vài đứa trẻ năm tuổi thực sự giỏi mới có thể đọc được thôi. 

“Em đọc nó cho cô được không, Nigel?” Cô hỏi. 

“Cái đó… khó quá cô ơi!” Nigel đáp. 

“Thế còn Lavender?” 

“Ưm… chữ đầu tiên là chữ Em.” Cô bé nói. 

“Có em nào ở đây có thể đọc trọn vẹn cả câu này không?” Cô giáo hỏi, chờ đợi một tiếng “Có ạ!” phát ra từ phía Matilda. 

“Có ạ.” Matilda nói. 

“Được, vậy em đọc cho cả lớp nghe đi.” 

Matilda liền đứng dậy, đọc vanh vách cả câu không sai một chữ. 

“Tốt lắm, thực sự rất tốt!” cô Honey nói, cố ý giảm nhẹ đi sự kỳ diệu trong hành động vừa rồi của cô bé xuống rất nhiều. “Em có thể đọc được nhiều không, Matilda?” 

“Dạ, em nghĩ là gần như mọi thứ, thưa cô.” Matilda đáp. “dù vậy không phải lúc nào em cũng hiểu được ý nghĩa của các câu nói.” 

Cô Honey vội đứng dậy và nhanh chóng bước ra khỏi phòng, nhưng trở lại ngay chỉ sau có mấy chục giây, mang theo một cuốn sách dầy cộp. Cô mở cuốn sách ra ở một trang bất kỳ nào đấy và đặt nó xuống trước mặt Matilda. “Đây là một quyển tuyển tập thơ thiếu nhi,” cô nói: “em có thể đọc to những dòng đó lên được không?” 

Một cách rất trôi chảy, không có một chút vấp váp và nhanh ở một mức hợp lý, Matilda bắt đầu đọc to: 

"Thực khách ăn ở nhà hàng 

Chợt thấy chú chuột lang thang trong nồi. 

Anh bồi vội vã xua tay: 

“Xin đừng la lớn, cũng đừng giơ lên 

Kẻo bàn bên cạnh trông sang 

Thấy ông có chuột, lại đòi thì…xong!”[2]

Một vài đứa trẻ thấy được sự hài hước của bài thơ, bèn cười phá lên. Cô Honey hỏi: “Matilda, em có biết ‘thực khách’ có nghĩa là gì không?” 

“Dạ, là người đến nhà hàng hoặc các quán ăn để ăn chứ không ăn cơm ở nhà ạ.” Cô bé đáp. 

“Đúng vậy.” cô nói. “Vậy em có tình cờ biết bài thơ này được viết ở thể thơ nào không?” 

“Dạ, là thơ ngắn hài hước[3]” Matilda nói. “Em thích thể loại thơ này, có nhiều bài buồn cười lắm ạ.” 

“Đây là một bài thơ khá nổi tiếng đấy.” Cô Honey nói, gập cuốn sách lại và đặt nó lên bàn giáo viên. “Một bài thơ ngắn hài hước mà lại còn hay rất khó để viết,” cô nói thêm. “trông thì tưởng là dễ viết, nhưng hoàn toàn không dễ tí nào.” 

“Em biết ạ.” Matilda nói. “Em cũng đã thử vài lần, nhưng những bài thơ mà em viết ra chẳng hay tí nào cả.” 

“Ôi, thật thế ư?” cô Honey thốt lên, trông có vẻ kinh ngạc hơn bao giờ hết. “Matilda à, cô sẽ rất vui nếu được nghe một bài thơ ngắn hài hước mà em đã viết. Em có thể đọc một bài cho cô và cả lớp nghe được không?” 

“Ưm,” Matilda nói, hơi có chút lưỡng lự: “Thực ra thì em vừa thử làm một bài thơ về cô đó, cô Honey, trong lúc ngồi đợi ở đây.” 

“Về cô ư!” Cô Honey kêu lên. “Vậy thì chắc chắn chúng ta phải nghe nó rồi, đúng không nào cả lớp?” 

“Ưm… có lẽ em không đọc nó thì tốt hơn, thưa cô.” 

“Ôi, đọc đi mà.” cô Honey nói. “Cô hứa là sẽ không bận tâm gì đâu!” 

“Em chắc là cô sẽ bận tâm đó, cô Honey, bởi em đã buộc phải dùng tên riêng[4] của cô để gieo cho có vần, và đấy cũng là lý do tại sao em không muốn đọc nó[5].” 

“Tên riêng của cô ư? Làm thế nào mà em biết được tên riêng của cô?” 

“Dạ, em nghe một cô giáo khác gọi cô bằng tên riêng lúc chúng em vừa mới vào lớp. Cô ấy gọi cô là Jenny.” 

“Kể cả thế cô vẫn nhất quyết phải nghe cho bằng được bài thơ này.” Cô Honey nói, và một nụ cười rất hiếm thấy nở trên gương mặt cô. “Đứng lên và đọc nó cho cả lớp đi nào, Matilda.” 

Bất đắc dĩ, Matilda đành chậm rãi đứng lên. Và một cách rất căng thẳng, cô bé bắt đầu đọc bài thơ ngắn của mình: 

“Hỏi người như là Jenny 

Một cô giáo trẻ, mặt hiền đáng yêu 

Người như cô thế liệu có nhiều? 

Trời kêu vọng xuống: ‘Chẳng nhiều lắm đâu!’ ”[6]

Cả khuôn mặt trái xoan nhìn rất dễ mến của cô Honey bắt đầu đỏ lên vì ngượng ngùng. Và rồi cô lại cười một lần nữa, lần này là một nụ cười tươi tắn hơn rất nhiều, nụ cười của niềm vui thích không thể che giấu. 

“Ôi, cám ơn em, Matilda!” cô nói, vẫn mỉm cười. “Mặc dù không đúng, nhưng đấy quả là một bài thơ ngắn rất hay. Ôi ôi, cô phải cố nhớ lấy bài thơ này mới được!” 

“Ôi, bài thơ nói đúng mà cô!” một cậu bé tên là Rupert nói. 

“Tất nhiên rồi!” Nigel nói. 

Tự nhiên cả lớp đã bày tỏ rất nhiều thiện cảm với cô Honey, dù cho từ nãy đến giờ cô gần như chẳng chú ý gì đến ai ngoài Matilda cả. 

“Ai đã dạy cho em biết đọc vậy, Matilda?” Cô Honey hỏi. 

“Em gần như là tự học thôi ạ, thưa cô.” Matilda đáp. 

“Vậy em đã tự đọc một cuốn sách nào chưa, như mấy cuốn sách thiếu nhi chẳng hạn?” 

“Dạ có, em đã đọc hết chỗ sách thiếu nhi có ở thư viện trong thị trấn rồi cô ạ.” 

“Vậy em có thích chúng không?” 

“Có một vài quyển em thực sự rất thích,” Matilda nói. “nhưng những cuốn còn lại thì có hơi chán một chút ạ.” 

“Vậy em kể cho cô tên một cuốn mà em thích xem nào.” 

“Ưm, em thích cuốn ‘Sư tử, mụ phù thủy và chiếc tủ quần áo[7]’ “ Matilda nói. “Em nghĩ ông C.S.Lewis thực sự là một nhà văn rất xuất sắc. Nhưng ông ấy cũng có một điểm yếu, đấy là trong các cuốn truyện của ổng chẳng có chỗ nào hài hước cả.” 

“Ừm, em nói đúng đấy.” Cô Honey nói. 

“Cả ông Tolkien cũng thế ạ, cũng chẳng có mấy chỗ hài hước nào trong truyện của ông ấy.” 

“Em có nghĩ là tất cả các cuốn truyện thiếu nhi đều nên có thêm chút hài hước không?” Cô Honey hỏi. 

“Có chứ ạ.” Matilda đáp. “Trẻ em thì không phải lúc nào cũng nghiêm túc như người lớn; với cả trẻ em thì rất thích cười mà!” 

Cô Honey vô cùng kinh ngạc và có chút thán phục trước kiến thức và trí thông minh của cô bé Matilda. Rồi cô hỏi: “Nếu đã đọc xong hết tất cả sách thiếu nhi rồi, vậy bây giờ em đang làm gì tiếp?” 

“Dạ, bây giờ em đang đọc đến những cuốn khác ạ.” Matilda nói. “Em mượn chúng từ thư viện. Cô Phelps thủ thư ở đó tốt lắm, cổ còn giúp em chọn sách nữa.” 

Cô Honey bây giờ đang nhoài cả người ra trước cái bàn, nhìn cô bé trước mặt mình với ánh mắt ngưỡng mộ. Cô đã hoàn toàn quên bẵng toàn bộ các học sinh còn lại trong lớp. “Là những cuốn nào vậy?” cô hỏi. 

“Em thích nhất là những cuốn của ông Charles Dickens.” Matilda nói. “Chúng rất hay, và cũng rất buồn cười nữa, đặc biệt là nhân vật Ông Pickwick ấy ạ.” 

Đúng lúc đó thì chiếc chuông gắn ở ngoài hành lang reo lên, báo hiệu giờ học đã kết thúc. 

________________________________________ 

Chú thích 

8) Nguyên bản: 

“An epicure dining at Crewe, 

Found a rather large mouse in his stew. 

Cried the waiter, ‘Don’t shout 

And wave it about 

Or the rest will be wanting one too.’ “ 

Dịch nghĩa: 

“Một thực khách sành ăn đang dùng bữa tối tại một nhà hàng ở thành phố Crewe, 

Thì bỗng thấy một chú chuột khá lớn nằm chết trong nồi súp thịt của mình. 

Người bồi bàn vội nói: ‘Xin đừng kêu lên! 

Và cũng đừng giơ nó lên cao! 

Kẻo những người khác nhìn thấy cũng sẽ lại đòi nhà hàng phục vụ món thịt chuột mất!’” 

12) Nguyên bản: 

“The thing we all ask about Jenny 

Is ‘Surely there cannot be many 

Young girls in the place 

With so lovely a face?’ 

The answer to that is, ‘Not any!’ “ 

Dịch nghĩa: 

“Thứ chúng ta vẫn hỏi về (cô) Jenny 

đấy là ‘Chắc chắn không thể có nhiều 

Những cô gái trẻ như thế ở đây 

Có khuôn mặt dễ thương đến như thế?’ 

Câu trả lời là, ‘Chẳng có ai nữa đâu!’
_________________________________

[1] Ở Anh và một số nước khác, bảng cửu chương không dùng lại ở 9 mà bao gồm 12 bảng, ngoài 9 chương từ 1 đến 9 còn thêm các chương 10, 11 và 12. 

[2] Xin xem thêm ở phần chú thích phía cuối chương truyện. 

[3] Nguyên bản: “limerick” - một thể thơ ngắn thường có chứa yếu tố hài hước, gồm hai câu dài có chữ cuối vần với nhau, theo sau là hai câu ngắn hơn vần với nhau, kết thúc lại bằng một câu dài vần với hai câu dài đầu tiên. 

[4] Nguyên bản: “firstname” - Tên riêng. Người Anh có 3 loại tên, đó là “first name” (tên riêng); “middle name” (tên đệm) và “last name” (họ). Thường trong xưng hô chỉ dùng “last name” để gọi nhau; chỉ trừ những người rất thân thiết như cha mẹ, họ hàng, bạn thân mới dùng đến “first name”.

[5] Trong xưng hô bình thường, chỉ trừ gia đình, họ hàng và bạn bè thân thiết; ngoài ra thì người ta thường tránh không sử dụng tên riêng để gọi nhau (bị coi là bất lịch sự, thiếu lễ độ, suồng sã quá mức cho phép). 

[6] Xin xem thêm ở phần chú thích phía cuối chương truyện. 

[7] Nguyên bản: “The Lion, the Witch and the Wardrobe” - một cuốn tiểu thuyết giả tưởng dành cho thiếu nhi rất nổi tiếng của nhà văn Anh C. S . Lewis; xuất bản lần đầu năm 1950 và đã được dịch ra trên 47 thứ tiếng.