Thứ Tư, 29 tháng 2, 2012

LUYỆN TẬP


Ngôi nhà của Matilda vẫn vắng tanh như thường lệ. Ông bố đi làm vẫn chưa về, bà mẹ đi chơi bài với mấy bà bạn cũng chưa về, còn cậu anh trai thì có thể đang ở bất cứ đâu. Cô bé vào thẳng phòng khách và lục tìm trong ngăn kéo tủ, nơi cô bé biết ba mình giữ hộp xì gà của ổng trong đó. Cô bé rút lấy một điếu và chạy thẳng lên phòng, khóa trái cửa lại. 

Đã đến lúc để luyện tập rồi, cô bé tự nhủ. Sẽ rất khó đấy, nhưng mình chắc chắn sẽ làm được. 

Kế hoạch để giúp đỡ cô Honey của cô bé đã được hình thành sẵn trong đầu. Cô bé đã tính đủ hết đến từng chi tiết nhỏ rồi, nhưng cuối cùng thì tất cả đều phải phụ thuộc vào một việc rất đặc biệt mà cô bé sẽ phải làm với năng lực của đôi mắt mình. Matilda biết là mình sẽ không thể làm được ngay, nhưng cô bé tin chắc rằng với đủ luyện tập và công sức, cuối cùng thì chắc chắn mình sẽ thành công. Điếu xì gà kia là một thứ cực kỳ quan trọng. Có lẽ nó hơi dày hơn một chút so với thứ mà cô bé muốn, nhưng trọng lượng của nó thì vừa vặn chuẩn. Dùng nó để tập luyện là ổn rồi. 

Có một cái bàn trang điểm nhỏ trong phòng của Matilda, trên đó có gương, lược chải tóc của cô bé cùng hai cuốn sách mượn của thư viện. Cô bé dẹp hết mấy thứ này sang một bên và đặt điếu xì gà ngay ngắn ở chính giữa mặt bàn. Rồi cô bé quay lại và ngồi lên giường. Giờ giữa cô bé và điếu xì gà đó vào khoảng ba mét. 

Matilda ngồi ngay ngắn và bắt đầu tập trung tinh thần. Ngay tức khắc, cô bé có thể cảm nhận thấy dòng điện chạy qua đầu và tích tụ lại sau mắt mình, đôi mắt trở nên nóng rực, và rồi hàng triệu triệu cánh tay bắt đầu phóng vọt ra nhanh như chớp, lao thẳng về phía điếu xì gà. “Chuyển động đi!” cô bé thì thầm, và thật bất ngờ, ngay lập tức, điếu xì gà với lớp giấy bọc màu vàng có vạch đỏ đó lăn mấy vòng trên mặt bàn, rồi rớt ngay xuống sàn. 

Matilda rất thích thú với kết quả đó. Có cảm giác như những tia chớp đã tích tụ lại rất nhiều trong đầu và bắn thẳng ra khỏi đôi mắt của cô bé. Nó cho cô bé một cảm giác lâng lâng kỳ lạ, một sự cảm nhận về thứ sức mạnh khác thường của mình. Và lần này nó diễn ra mới nhanh làm sao! Mới đơn giản biết bao! 

Cô bé bước về phía điếu xì gà, nhặt nó lên và đặt lại vào vị trí cũ, giữa mặt bàn. 

Giờ thì đến công đoạn khó đây, cô bé nghĩ. Nhưng nếu như mình đã có khả năng đẩy được một đồ vật, thì chắc chắn mình cũng phải có khả năng nâng được nó lên cao chứ? Học được cách nâng nó lên cao là một việc đặc biệt quan trọng. Mình buộc phải làm cho nó bay được lên trên không và giữ được nó lơ lửng ở đó. Dù sao thì điếu xì gà này cũng đâu phải là thứ nặng nề gì. 

Cô bé ngồi lại lên giường và bắt đầu tập trung. Bây giờ thì việc tập trung năng lượng diễn ra rất nhanh và dễ dàng hơn rất nhiều. Giống như là bóp một cái cò súng vậy. “Bay lên!” cô bé thì thầm. “Bay lên! Bay lên nào!” 

Lúc đầu điếu xì gà đó chỉ lăn vòng vòng xung quanh. Và rồi, khi Matilda tập trung hơn nữa, một đầu của nó bắt đầu bị kéo lên cao khoảng hai phân so với mặt bàn. 

Với một nỗ lực cực lớn, cô bé xoay sở giữ được nó ở nguyên chỗ đó trong khoảng mười giây. Và rồi nó lại rớt xuống trở lại. 

“Phù!” cô bé thở hắt ra. “Được rồi! Mình bắt đầu làm được rồi!” 

Trong suốt một giờ tiếp theo, Matilda tiếp tục luyện tập, và cuối cùng cô bé cũng đã xoay sở để nhấc được điếu xì gà đó lên cao cách mặt bàn đến mười lăm phân, và giữ cho nó ở nguyên lơ lửng như thế đến hơn một phút. Rồi bất ngờ cảm thấy như đột ngột cạn kiệt hết sức lực, cô bé đổ vật ra giường và thiếp đi ngay tức khắc. 

Đến tận tối hôm đó, bà mẹ phát hiện ra cô bé vẫn đang ngủ mê mệt trên giường. 

“Làm sao thế?” bà mẹ nói, lay cô bé dậy. “Mày bị ốm hả?” 

“Ôi trời đất,” Matilda nói, nhỏm dậy và nhìn xung quanh. “Không, con không sao cả. Chỉ là con hơi mệt nên nằm nghỉ một chút thôi.” 

Kể từ đó, cứ mỗi ngày ngay sau khi tan học là Matilda lại nhốt mình trong phòng và tập luyện với điếu xì gà. Và rồi cuối cùng đến một ngày, việc tập luyện cũng đã hoàn tất. Sáu ngày sau đó, vào đêm Thứ Tư của tuần kế tiếp, cô bé không những đã có thể nhấc được điếu xì gà lên, mà còn có thể điều khiển cho nó bay lượn qua lại trên không theo ý muốn nữa. Một kết quả thật tuyệt vời. “Mình làm được rồi!” cô bé reo lên. “Mình thực sự đã làm được rồi! Mình đã có thể nhặt điếu xì gà lên chỉ bằng mắt của mình và và làm cho nó bay lượn đủ kiểu trong không trung!” 

Và bây giờ, tất cả những việc phải làm chỉ còn là thực thi kế hoạch như đã định mà thôi.

NHỮNG CÁI TÊN


“Cô Trunchbull!” Matilda nhảy dựng lên, kêu to. “Bà ta chính là bà dì của cô ư? Chính bà ta đã nuôi dạy cô?” 

“Đúng thế,” cô Honey nói. 

“Chẳng trách sao cô đã khiếp sợ đến vậy!” Matilda kêu lên. “Hôm trước bọn em thấy bà ta tóm lấy một bạn nữ bằng bím tóc của bạn ấy và liệng cho bạn ấy bay qua cả hàng rào!” 

“Thế còn chưa là gì đâu,” cô Honey nói. “Sau khi ba cô mất, lúc cô khoảng năm tuổi rưỡi, bà ta thường bắt cô phải tự tắm một mình. Và nếu bà ta bất chợt thấy cô và nghĩ cô tắm còn chưa sạch, bà ta sẽ không ngần ngại nhấn đầu cô xuống nước và giữ nó ở đó. Nhưng đừng bắt cô kể đến những gì mà bà ta đã từng làm. Mấy chuyện đó có kể ra thì cũng chẳng giúp ích được gì hết đâu.” 

“Vâng,” Matilda nói, “đúng vậy.” 

“Chúng ta đến đây hôm nay,” cô Honey nói, “là để nói về em, vậy mà từ nãy đến giờ cô chẳng làm được gì ngoài việc cứ tự lảm nhảm về bản thân mình. Cô thấy mình như một con ngốc ấy. Cô thực sự hứng thú hơn nhiều với việc tìm hiểu xem liệu đôi mắt kỳ diệu kia của em có thể làm được những gì, Matilda ạ.” 

“Em có thể làm đồ vật dịch chuyển,” Matilda nói. “Em biết là mình có thể làm được điều đó. Em có thể đẩy chúng đi bằng mắt của mình.” 

“Em thấy sao,” cô Honey nói, “nếu chúng ta cùng thử làm một vài thí nghiệm nhỏ để biết xem em có thể dịch chuyển và đẩy các thứ đồ đạc đi được đến đâu?” 

Đột nhiên, khá bất ngờ, Matilda nói: “Nếu cô không phiền, cô Honey, em nghĩ giờ em sẽ không làm vậy. Em muốn về nhà và ngẫm nghĩ về tất cả những điều mình đã nghe được trong suốt chiều nay, thưa cô.” 

Nghe đến đó, cô Honey lập tức đứng phắt dậy. “Tất nhiên rồi,” cô nói. “Cô đã giữ em ở đây quá lâu rồi. Mẹ em chắc phải đang lo lắng lắm.” 

“Bà ấy sẽ chẳng bao giờ thế đâu,” Matilda mỉm cười nói. “Nhưng em muốn được về nhà ngay ạ, nếu cô không phiền.” 

“Vậy mau đi thôi nào,” cô Honey nói. “Cô xin lỗi vì đã để em phải uống thứ trà dở tệ thế này.” 

“Không đâu ạ,” Matilda nói. “Em thích nó lắm.” 

Hai cô trò lại dắt tay nhau trở về nhà của Matilda trong tuyệt đối yên lặng. Cô Honey cảm thấy có lẽ cô học trò nhỏ thích thế hơn. Cô bé có vẻ đang đắm chìm trong những suy nghĩ của mình đến nỗi gần như đi mà không nhìn đường nữa. Khi cả hai đã đến cánh cổng ngôi nhà của Matilda, cô Honey liền nói: “Tốt hơn là em nên quên hết những gì mà cô đã kể với em lúc chiều nay đi, Matilda à.” 

“Em không hứa được chuyện đó đâu,” Matilda nói. “Nhưng em hứa với cô là sẽ không nói lại về chuyện này cho bất kể ai nữa, kể cả là nói với cô.” 

“Cô nghĩ đấy là một quyết định khôn ngoan đấy,” cô Honey đáp. 

“Em không thể hứa là sẽ không nghĩ về những việc đó đâu, cô Honey à,” Matilda nói. “Em đã nghĩ về chúng suốt từ lúc chúng ta rời khỏi nhà cô tới giờ, và em tin là em vừa mới nảy ra một vài ý tưởng rất hay.” 

“Không được,” cô Honey vội gạt đi. “Em làm ơn hãy quên nó đi đi.” 

“Em muốn hỏi cô ba điều cuối, trước khi chúng ta thôi không bàn về chuyện này nữa,” Matilda nói. “Cô có thể làm ơn trả lời em được không, cô Honey?” 

Cô Honey mỉm cười. Thật là kỳ lạ, cô thầm nghĩ, khi giờ đây cô học trò nhỏ xíu này lại bất ngờ tiếp quản hết những vấn đề của cô; lại còn đòi đặt câu hỏi cho cô nữa chứ. “Ừm,” cô đáp, “cái đó còn tùy thuộc xem những câu hỏi đó là gì nữa.” 

“Câu hỏi thứ nhất,” Matilda nói. “Ngày ba cô còn sống, cô Trunchbull thường gọi ông ấy là gì?” 

“Cô chắc chắn bà ấy đã gọi ba cô là Magnus,” cô Honey đáp. “Đó là tên riêng của ông ấy.” 

“Vậy còn ba cô đã gọi bà ấy là gì?” 

“Tên riêng của bà ấy là Agatha,” cô giáo nói, “đó là cái tên mà ba cô đã dùng để gọi bà ta.” 

“Và cuối cùng,” Matilda hỏi, “ba cô và cô Trunchbull đã từng gọi cô là gì? 

“Họ gọi cô là Jenny,” cô Honey đáp. 

Matilda cẩn thận nhắc lại mấy câu trả lời của cô Honey một cách rất cẩn thận. “Để em kể lại xem có đúng không nhé,” cô bé nói. “Ở nhà cô thì ba cô là Magnus, cô Trunchbull là Agatha, còn cô là Jenny; đúng chưa ạ?” 

“Đúng thế,” cô Honey nói. 

“Cám ơn cô ạ,” Matilda nói. “Từ giờ em sẽ không bao giờ nhắc lại về chủ đề này nữa đâu.” 

Cô Honey thắc mắc không biết cô bé đang có dự tính gì trong đầu nữa. “Đừng có làm cái gì ngốc nghếch đấy.” cô nói. 

Matilda cười và quay mình chạy về phía cánh cửa ngôi nhà; rồi kêu to: “Tạm biệt cô Honey! Cám ơn cô về tách trà!”

Thứ Ba, 28 tháng 2, 2012

CÂU CHUYỆN CỦA CÔ HONEY


“Chúng ta tuyệt đối không được vội vàng,” cô Honey nói, “hãy cứ dùng thêm một tách trà nữa đã. Và em hãy ăn cả miếng bánh kia nữa đi. Em chắc hẳn đang phải đói lắm.” 

Matilda nhặt lát bánh mì thứ hai lên và chầm chậm cắn một miếng nhỏ. Món bơ thực vật kể ra cũng không tệ lắm. Thực ra thì, cô bé nghĩ, nếu không phải là do biết trước thì chưa chắc mình đã nhận ra được rằng đây chỉ là bơ thực vật đâu. “Cô Honey à,” cô bé đột nhiên hỏi, “bộ ở trường họ trả công cô tệ lắm sao?” 

Cô Honey lập tức ngẩng lên. “Cũng không có tệ lắm,” cô nói. “Cô cũng được trả bằng với những giáo viên khác.” 

“Nhưng nó hẳn cũng vẫn phải ít lắm, thế nên cô mới nghèo thế này chứ,” Matilda nói. “Chẳng lẽ tất cả các giáo viên trường mình đều phải sống thế này sao; không bàn, không ghế, không bếp, thậm chí là không cả một cái nhà tắm tử tế?” 

“Họ không thế đâu,” cô Honey đáp, giọng cô như nghẹn lại. “Cô chỉ đơn giản là một ngoại lệ thôi.” 

“Em đoán chắc là vì cô thích sống giản dị thôi, đúng không ạ?” Matilda hỏi thêm một câu nữa để thăm dò. “Với lại thế này lúc quét dọn đỡ cực hơn nhiều ấy chứ. Đỡ mất công lau chùi đồ đạc hàng ngày này, rồi lúc dọn dẹp nhà cửa cũng chẳng phải tốn sức nhiều nữa. Và em đoán vì không có tủ lạnh nên cô cũng chẳng cần phải có nhu cầu đi mua về đủ thứ đồ ăn vặt chỉ để chất vào tủ như mấy người khác; mấy cái thứ như trứng này, may-ô-ne này, rồi kem bánh đủ kiểu. Vừa đỡ công đi mua sắm, lại vừa tiết kiệm được tiền.” 

Đến lúc này, Matilda chợt để ý thấy sắc mặt cô Honey đột nhiên sầm hẳn xuống, và trông cô có gì đó là lạ, khác hẳn lúc bình thường. Hai vai cô nhô cao, đôi môi mím chặt lại; và cô ngồi đó, nắm chặt lấy tách trà bằng cả hai bàn tay. Khuôn mặt cô cúi gằm xuống, mắt chăm chăm nhìn vào tách trà trên tay như đang nghĩ cách để có thể trả lời thỏa đáng những câu hỏi không-thực-sự-ngây-thơ lắm của cô học trò nhỏ này. 

Tiếp sau đó là cả một khoảng lặng dài khá khó xử chen vào giữa đoạn đối thoại. Chỉ trong vòng có ba mươi giây mà bầu không khí trong căn phòng đột ngột trở nên căng thẳng và khó xử hơn bao giờ hết. Rồi Matilda nói: “Em xin lỗi vì đã tọc mạch như vậy, cô Honey. Em không nên hỏi những câu như thế; đó hẳn nhiên không phải là chuyện của em.” 

Đúng lúc đó, cô Honey đột nhiên như choàng tỉnh giấc. Cô khẽ nhún vai và lắc nhẹ đầu mấy cái. Rồi rất cẩn thận, cô nhẹ nhàng đặt tách trà xuống khay và nói: 

“Sao em lại không nên hỏi chứ? Rồi sẽ cũng sẽ có lúc em thấy thắc mắc thôi. Em quá thông minh để có thể không thắc mắc. Và có lẽ chính cô cũng muốn em thắc mắc. Có lẽ đấy cũng chính là lý do cô lại mời em đến đây hôm nay. Thật ra thì em là vị khách đầu tiên của ngôi nhà này đấy, kể từ khi cô dọn đến đây hai năm trước.” 

Matilda chỉ im lặng không nói gì hết. Cô bé có thể thấy rõ sự căng thẳng cứ đang lớn lần, lớn dần lên trong căn phòng. 

“Em thực sự thông minh hơn lứa tuổi của em rất nhiều đấy, cô bé ạ,” cô Honey nói tiếp. “đến độ làm cho cô cảm thấy hơi sốc. Mặc dù trông em không khác gì một đứa trẻ bình thường, nhưng bên trong em lại chẳng phải là một đứa trẻ; bởi tất cả trí tuệ và óc phán đoán của em đều đã trưởng thành ngang mức của một người lớn rồi. Em nên được gọi là một đứa-trẻ-lớn, nếu em hiểu ý cô đang muốn nói là gì.” 

Matilda vẫn im lặng lắng nghe mà không nói gì hết. Cô bé vẫn đang chờ đợi những điều sẽ sắp được kể tiếp theo. 

“Đến tận bây giờ,” cô Honey nói tiếp, “cô vẫn không thể nói ra được chuyện này cho bất cứ ai. Cô không thể chịu đựng nổi nỗi hổ thẹn đó, và thực sự, cô đã không có đủ dũng cảm. Tất cả lòng dũng cảm của cô có lẽ đều đã mất hết khỏi cô kể từ khi cô còn là một đứa trẻ rồi. Nhưng lúc này, đột nhiên cô lại có khao khát một cách tuyệt vọng là được kể chuyện này ra cho một ai đó nghe. Cô biết em vẫn chỉ là một đứa trẻ thôi, nhưng có một thứ phép thuật nào đó ở trong em. Cô đã được chứng kiến nó bằng chính đôi mắt mình.” 

Matilda đột nhiên nhận ra một điều. Cái giọng nói cô bé đang nghe kia chắc chắn đang tuyệt vọng kiếm tìm một sự giúp đỡ. Phải là thế. Chắc chắn phải là thế. 

Và giọng nói đó lại cất lên: “Em uống thêm chút trà đi,” nó nói, “hãy còn một ít đấy.” 

Matilda khẽ gật đầu. 

Cô Honey rót thêm trà vào cả hai tách rồi lại pha thêm một chút sữa. Một lần nữa, cô lại giữ chặt chiếc tách bằng cả hai tay, rồi đưa lên miệng và nhấp một ngụm nhỏ. 

Lại một khoảng lặng nữa kéo dài, trước khi cô Honey cất tiếng nói: “Để cô kể cho em một câu chuyện nhé?” 

“Vâng ạ,” cô bé đáp. 

“Cô năm nay hai mươi ba tuổi,” Cô Honey bắt đầu nói, “và khi cô chào đời, ba của cô là một vị bác sĩ ở ngôi làng này. Gia đình cô sống trong một ngôi nhà bằng gạch đỏ khá lớn, ở tuốt tận phía sau khu đồi cơ; cô không nghĩ là em biết chỗ đó.” 

Matilda vẫn giữ im lặng. 

“Cô đã chào đời ở đó,” cô giáo nói. “Và rồi thảm kịch thứ nhất ập đến. Mẹ cô qua đời khi cô còn chưa tròn hai tuổi. Ba cô là một bác sĩ luôn bận rộn, vì thế cần phải có một ai đó giúp ông trông giữ nhà cửa và chăm sóc cho cô. Vậy nên ông đã mời người em gái chưa chồng của mẹ cô, tức là bà dì của cô, tới sống cùng với hai ba con. Bà ấy đồng ý và chuyển tới ngôi nhà.” 

Matilda chăm chú lắng nghe. “Lúc dọn đến nhà cô thì bà dì đó bao nhiêu tuổi rồi ạ?” cô bé hỏi. 

“Cũng không già lắm,” cô Honey nói. “Cô nghĩ có lẽ lúc đó bà ấy chỉ khoảng ngoài ba mươi. Nhưng ngay từ lúc đó cô đã rất ghét bà ấy. Cô nhớ mẹ cô kinh khủng. Và bà dì cô lại chẳng phải là một kẻ tốt bụng gì. Ba cô chẳng biết gì hết vì chẳng mấy khi ông ở nhà; nhưng mỗi khi có bóng ông ấy xung quanh là bà ta cư xử khác hẳn ngay.” 

Cô Honey ngừng lời và nhấp thêm một ngụm trà nhỏ. “Cô chẳng hiểu tại sao cô lại kể chuyện này cho em nữa,” cô nói, hơi có chút xấu hổ. 

“Cô,” Matilda nói, “cô kể tiếp đi cô.” 

“Ừm,” cô Honey nói, “và rồi thảm kịch thứ hai xảy ra. Khi cô mới lên năm thì ba cô đột ngột qua đời. Mới ngày trước ông ấy còn ở đó, ngày hôm sau đã chẳng còn thấy ông đâu nữa. Vậy nên chỉ còn có cô và bà dì của mình. Bà ấy trở thành người giám hộ hợp pháp thay cha mẹ cô. Bà ấy có tất cả mọi quyền lực của một vị phụ huynh với cô; và bằng cách nào đó, bà ấy đã trở thành người chủ thực sự của cả ngôi nhà.” 

“Tại sao ba cô lại chết ạ?” Matilda hỏi. 

“Em hỏi hay lắm,” cô Honey nói. “Khi đó cô còn quá nhỏ để có thể tự hỏi mình câu hỏi đó. Nhưng rồi dần dần khi lớn lên, cô khám phá ra rằng có cả một bí ẩn lớn xung quanh cái chết của ba cô.” 

“Không ai biết ông ấy đã chết như thế nào ư?” Matilda hỏi. 

“Ừm, cũng không hẳn thế,” cô giáo đáp, hơi có chút do dự. “Em thấy đấy, chỉ là không ai tin nổi ông ấy lại có thể làm thế. Lúc còn sống ông vẫn luôn là một người rất bình tĩnh và sáng suốt.” 

“Làm cái gì cơ ạ?” Matilda hỏi. 

“Tự vẫn,” cô giáo đáp. 

Matida sửng sốt. “Thật ấy ạ?” cô bé hỏi. 

“Ít nhất thì trông cũng có vẻ như vậy,” cô Honey nói. “Nhưng ai biết được?” cô nhún vai và quay mình lại, nhìn về khung cảnh xa xăm phía bên kia ô cửa sổ. 

“Em biết cô đang nghĩ gì,” Matilda nói. “Cô đang nghĩ là chính bà dì đã sát hại ba cô và cố tình dàn dựng cho giống như ông ấy đã tự vẫn.” 

“Cô chẳng nghĩ gì hết,” cô Honey nói. “Không ai có thể nghĩ đến những điều như vậy mà không có gì làm bằng chứng.” 

Và rồi căn phòng nhỏ lại rơi vào yên lặng. Matilda chợt nhận ra đôi bàn tay nắm chặt chiếc tách kia đang run lên khe khẽ. “Thế rồi sau đó thì sao ạ?” cô bé hỏi. “Chuyện gì đã xảy ra khi cô được giao lại cho bà dì nuôi? Bà ấy có đối xử tốt với cô không?” 

“Tốt ư?” cô Honey nói. “Bà ta là một con ác quỷ. Ngay sau khi ba cô qua đời, bà ta trở nên đặc biệt kinh khủng hơn bao giờ hết. Cuộc đời cô khi đó hoàn toàn là một cơn ác mộng.” 

“Bà ấy đã làm gì cô sao?” Matilda hỏi. 

“Cô không muốn nhắc đến những chuyện đó,” cô Honey nói. “Chúng quá kinh khủng. Cuối cùng cô trở nên khiếp sợ bà ta đến mức mỗi lần bà ta bước vào phòng là toàn thân cô bắt đầu run rẩy. Em phải hiểu là cô chưa bao giờ được mạnh mẽ như em. Cô lúc đó rất nhút nhát và sống tách biệt với mọi người.” 

“Cô không còn họ hàng nào khác sao ạ?” Matilda hỏi. “Một ông chú hay một bà cô, hay ông bà nội ngoại nào đó để có thể đến và chăm sóc cho cô?” 

“Không, cô không biết ai trong số họ cả,” cô giáo đáp. “Họ đều hoặc đã chết, hoặc đã chuyển tới Australia cả rồi. Và bây giờ thì vẫn thế thôi, cô e là vậy.” 

“Vậy là cô đã lớn lên trong ngôi nhà đó cùng với bà dì của mình,” Matilda nói. “Nhưng cô cũng phải được đến trường chứ.” 

“Tất nhiên,” cô Honey đáp. “Cô cũng đã học ở chính ngôi trường em đang học bây giờ đấy. Nhưng cô sống ở nhà.” Cô Honey ngừng lời lại và nhìn xuống tách trà đã rỗng không trong tay mình. “Cô nghĩ điều cô đang muốn nói với em ở đây,” cô nói tiếp, “là trong suốt những năm tháng đó cô đã bị thống trị, bị dọa dẫm bởi bà dì đó đến nỗi khi bà ta ra lệnh cho cô, không cần biết nó là gì, cô sẽ lập tức tuân lệnh ngay tức khắc. Việc đó cũng có thể xảy ra, em biết đấy. Và đến năm cô mười tuổi, cô đã thực sự trở thành một tên nô lệ phục tùng cho bà ấy. Cô làm tất cả mọi việc nhà. Cô dọn giường cho bà ta. Cô giặt đồ, rồi ủi đồ cho bà ta. Cô nấu tất cả các bữa ăn. Cô đã phải học để tự làm tất cả mọi thứ.” 

“Nhưng chắc chắn cô cũng phải than phiền với một ai đó chứ?” Matilda hỏi. 

“Với ai mới được cơ chứ?” cô Honey nói. “Vả lại, cô cũng đã quá sợ hãi để có thể hé răng ra nói chuyện này với bất kỳ ai. Cô đã nói với em, cô đã trở thành một tên nô lệ của bà ta mà.” 

“Bà ta có bao giờ đánh cô không?” 

“Hãy không bàn đến những chuyện đó,” cô Honey nói. 

“Thật kinh khủng !” Matilda nói. “Lúc đó chắc cô đã khóc suốt?” 

“Chỉ những khi cô ở một mình thôi,” cô Honey nói. “Cô không được phép khóc trước mặt bà ta. Cô đã phải sống trong sợ hãi.” 

“Vậy chuyện gì đã xảy ra với cô sau khi cô đã ra trường?” Matilda hỏi. 

“Cô lúc đó là một học sinh xuất sắc,” cô Honey nói. “Cô đã có thể dễ dàng học tiếp lên đại học. Nhưng cô đã không được phép làm điều đó.” 

‘Tại sao ạ?” 

“Bởi vì cô cần phải ở nhà để làm việc nhà.” 

“Vậy làm thế nào mà cô lại trở thành một giáo viên được?” Matilda hỏi. 

“Có một trường cao đẳng sư phạm,” cô Honey nói. “Nó chỉ cách nơi cô sống có bốn mươi lăm phút đi xe buýt. Cô được phép tới đó học, với điều kiện là tan học phải trở về nhà ngay để giặt giũ, ủi đồ, dọn dẹp nhà cửa và nấu bữa tối.” 

“Khi đó cô bao nhiêu tuổi ạ?” Matilda hỏi. 

“Khi bắt đầu học ở trường sư phạm là cô mười tám tuổi.” Cô Honey đáp. 

“Lúc đó đúng ra cô đã có thể thu xếp đồ đạc và bỏ đi mà.” Matilda nói. 

“Không nếu cô chưa có được một việc làm,” cô Honey nói. “Và chớ quên, khi đó cô đã bị thống trị bởi bà dì đó quá lâu đến nỗi cô không thể có gan làm chuyện đó. Em không tưởng tượng nổi cảm giác khi hoàn toàn bị khống chế bởi một kẻ như bà ấy là như thế nào đâu. Nó làm cho em trở nên vô cùng yếu ớt. Đó, nó đó. Câu chuyện buồn của đời cô.” 

“Làm ơn đừng ngừng lại,” Matilda nói. “Cô còn chưa kể hết mà. Làm thế nào mà cuối cùng cô lại thoát được khỏi bà ấy, và đến sống trong căn nhà nhỏ ngộ nghĩnh này?” 

“A, đó lại là một chuyện khác,” cô Honey nói. “Đấy là một chuyện mà cô khá tự hào đấy.” 

“Cô kể đi cô,” Matilda nói. 

“Ừm,” cô Honey nói, “khi cô nhận được công việc giáo viên này, bà dì bảo với cô là cô nợ bà ấy rất nhiều tiền. Cô hỏi bà ấy tại sao lại thế. Và bà ta nói: “Bởi vì ta đã nuôi mi suốt bao nhiêu năm qua, đã mua quần mua áo, mua giày dép sắm sửa các thứ cho mi nữa!” Bà ấy nói với cô số tiền tổng cộng lên đến hàng nghìn bảng, và cô sẽ phải trả nợ bằng tiền lương tháng của mình trong suốt mười năm tiếp theo. “Ta sẽ cho mi mỗi tuần một bảng để tiêu vặt,” bà ta nói, “nhưng chỉ thế thôi, không hơn.” Bà ta thậm chí còn sắp xếp với nhà trường để tiền lương hàng tháng của cô được chuyển thẳng vào tài khoản ngân hàng của bà ta. Bà ta bắt cô phải ký các loại giấy tờ tự nguyện chuyển số tiền đó cho bà ấy.” 

“Đúng ra cô không nên làm thế,” Matilda nói. “Khoản tiền lương đó của cô chính là cơ hội để cô trốn thoát.” 

“Cô biết, cô biết,” cô Honey nói. “Nhưng đến lúc đó cô đã là nô lệ cho bà ấy suốt bao nhiêu năm trời rồi, cô đã không đủ dũng cảm để có thể nói không. Cô vẫn bị bà ta đe dọa. Bà ta vẫn có thể khủng bố tinh thần cô.” 

“Vậy làm thế nào mà cô trốn thoát được vậy?” Matilda hỏi. 

“A,” cô Honey nói, lần đầu tiên mỉm cười suốt từ nãy tới giờ. “đó là vào hai năm trước. Đó là chiến thắng lớn nhất của cô đó.” 

“Kể em nghe đi cô,” Matilda nài nỉ. 

“Cô có thói quen dậy rất sớm và đi dạo buổi sáng, khi đó bà dì của cô vẫn còn đang say ngủ,” cô Honey nói. “Và rồi một ngày cô đi ngang qua ngôi nhà nhỏ này. Nó lúc đó trống trơn, chẳng có ai sống trong đó hết. Rồi cô tìm ra chủ nhân của ngôi nhà đó là ai. Đó là một bác nông dân. Thế là cô đi tìm bác ấy. Cô hỏi bác ta xem liệu cô có thể thuê căn nhà nhỏ của bác ấy để ở được không? ‘Cô không thể sống ở đó được đâu!’ bác ấy kêu lên. ‘Nó không có đồ đạc tiện nghi, không có nước máy, chẳng có gì hết!’ 

‘Nhưng cháu vẫn muốn sống ở đó,’ cô nói. ‘Cháu là một kẻ lãng mạn. Cháu rất thích nơi này. Bác làm ơn hãy cho cháu thuê nó đi.’ 

‘Cô điên mất rồi.’” bác ấy nói. ‘Nhưng thôi được, nếu cô cứ khăng khăng nhất quyết như vậy thì cứ tùy cô. Giá thuê sẽ là mười xu một tuần.’ 

‘Đây là tiền thuê trả trước của cả một tháng ạ,’ cô nói và đưa cho bác ấy bốn mươi xu. ‘Cảm ơn bác rất nhiều!’ ” 

“Tuyệt vời!” Matilda thốt lên. “Vậy là tự nhiên cô đã có một ngôi nhà cho riêng mình rồi! Nhưng làm thế nào mà cô gom đủ dũng khí để thông báo tin này với bà dì kia?” 

“Cái đó cũng khá khó đấy,” cô Honey nói. “Nhưng cô đã quyết tâm là mình phải làm được. Một buổi tối nọ, sau khi đã nấu xong bữa tối cho bà ta, cô lên thẳng phòng mình và thu dọn vài thứ đồ đạc vào trong một cái hộp giấy, rồi cô xuống dưới nhà và tuyên bố là mình sẽ dọn ra ở riêng. ‘Cháu đã thuê được một ngôi nhà rồi,’ cô nói. 

Bà dì của cô nổi điên lên. ‘Thuê được một ngôi nhà! Làm sao mà mi thuê được một ngôi nhà khi mi chỉ có một bảng một tuần cơ chứ?’ 

‘Thế nhưng cháu đã thuê được,’ cô nói. 

‘Và mi sẽ kiếm đâu ra tiền để mua thức ăn?’ 

‘Cháu sẽ xoay sở được,’ cô đáp rồi chạy thẳng ra khỏi cửa, không bao giờ quay lại ngôi nhà đó nữa.” 

“Ôi, cô làm tốt lắm!” Matilda kêu lên. “Vậy là cuối cùng cô cũng đã được tự do!” 

“Cuối cùng cô cũng đã được tự do,” cô Honey nói. “Cô không thể kể hết cho em nghe cô đã vui sướng biết bao khi cuối cùng đã đạt được điều đó đâu.” 

“Nhưng cô thực sự đã xoay sở để sống được ở đây trong suốt hai năm qua chỉ với một bảng một tuần thôi ư?” 

“Chính xác,” cô Honey nói. “cô trả mười xu tiền thuê nhà, và phần còn lại vừa đủ để cô mua pa-ra-phin để nhóm bếp và châm đèn, một chút sữa, trà, bánh mì và bơ thực vật nữa. Đấy là tất cả những gì cô cần, thật đấy. Như cô đã nói với em, cô luôn dùng một bữa thật no ở trường rồi mà.” 

Matilda nhìn cô giáo của mình. Điều mà cô Honey đã làm mới dũng cảm làm sao. Bỗng nhiên cô trở thành người anh hùng trong mắt Matilda. “Thế này thì vào mùa đông có lạnh lắm không ạ?” cô bé hỏi. 

“Cô đã có cái bếp pa-ra-phin nhỏ bé này rồi,” cô Honey nói. “Em sẽ ngạc nhiên khi biết cô có thể làm chỗ này ấm áp đến thế nào đấy.” 

“Cô có một cái giường để ngủ không, cô Honey?” 

“Ừm, cũng không hẳn.” cô Honey nói, mỉm cười một lần nữa. “Nhưng người ta bảo là nằm trên mặt phẳng cứng cũng rất tốt cho sức khỏe mà.” 

Bất ngờ Matilda nhận thức được toàn bộ tình huống lúc này một cách thật rõ ràng. Cô Honey cần được giúp đỡ. Cô ấy không thể cứ sống mãi như thế này được. “Cô sẽ có thể sống tốt hơn rất nhiều, cô Honey à,” cô bé nói, “nếu cô xin thôi việc và nhận trợ cấp thất nghiệp.” 

“Cô chắc chắn sẽ không bao giờ làm thế,” cô Honey nói. “Cô yêu công việc giảng dạy của mình.” 

“Cái bà dì độc ác đó,” Matilda nói, “em đoán là bà ta hiện giờ vẫn đang sống trong ngôi nhà cũ đẹp đẽ của cô?” 

“Đúng thế,” cô Honey nói. “Bà ta mới chỉ ngoài năm mươi. Bà ta sẽ còn ở đó một thời gian dài nữa.” 

“Và cô có nghĩ liệu ba cô có ý định giao cho bà ta căn nhà đó mãi mãi không?” 

“Cô khá chắc chắn ba cô sẽ không bao giờ làm thế,” cô Honey nói. “Cha mẹ thường giao cho những người giám hộ của con cái mình quyền trông coi trong ngôi nhà trong một khoảng thời gian nhất định, nhưng cuối cùng nó sẽ luôn được tin tưởng mà giao lại cho con cái họ. Ngôi nhà sau đó sẽ trở thành tài sản của người con khi nó lớn.” 

“Vậy thì chắc chắn ngôi nhà đó là của cô?” Matilda hỏi. 

“Bản di chúc của ba cô chưa bao giờ được tìm thấy,” cô Honey nói. “Có vẻ như có ai đó đã tiêu hủy nó mất rồi.” 

“Khỏi phải nói cũng biết là ai,” Matilda nói. 

“Khỏi phải nói cũng biết,” cô Honey nói. 

“Nhưng nếu không tìm thấy bản di chúc, thì đương nhiên ngôi nhà sẽ tự động thuộc về cô mà, cô Honey. Cô là người thừa kế hợp pháp mà.” 

“Cô biết điều đó,” cô Honey nói. “Nhưng bà dì của cô lại đưa ra được một mảnh giấy được cho là do ba cô viết, theo đó ngôi nhà được trao lại cho người em vợ của ông vì đã hết lòng chăm sóc cô. Cô chắc chắn mảnh giấy đó chỉ là giả, nhưng chẳng ai có thể chứng minh được điều đó.” 

“Sao cô không thử?” Matilda nói. “Cô có thể thuê một ông luật sư thật giỏi và đâm đơn kiện mà.” 

“Cô không có đủ tiền để làm điều đó,” cô Honey nói. “Và em nên biết là bà dì này của cô là một kẻ rất được mọi người nể sợ trong vùng này. Bà ta có ảnh hưởng rất lớn tới cộng đồng đấy.” 

“Bà ta là ai vậy ạ?” Matilda hỏi. 

Cô Honey chần chừ trong giây lát. Và rồi cô nhẹ nhàng nói: “Cô Trunchbull.”

Thứ Hai, 27 tháng 2, 2012

NGÔI NHÀ NHỎ CỦA CÔ HONEY


Một lúc sau, cô Honey và Matilda rời bước khỏi cánh cổng trường tiểu học Crunchem Hall, và hai người họ cùng im lặng rảo bước qua ngôi làng buôn bán tấp nập High Street. Họ bước qua cửa hàng bán rau quả với những khung cửa sổ chất đầy cam và táo xanh, rồi cửa hàng bán thịt với những tảng thịt lớn đỏ tươi bày ra trên bàn và những chú vịt đã được vặt lông treo đầy trên những chiếc móc sắt, một cái ngân hàng nhỏ, rồi một cửa tiệm tạp hóa, rồi đến một tiệm bán đồ điện; và rồi ra đến phía bên kia của ngôi làng, nơi có một con đường nhỏ dẫn vào trong rừng, vắng bóng người và chỉ thưa thớt xuất hiện một vài chiếc ôtô. 

Và giờ khi chỉ còn có hai cô trò trên đường, Matilda đột nhiên trở nên đặc biệt hiếu động và hào hứng hẳn lên. Cứ như có một chiếc van an toàn vô hình nào đó bên trong cô bé vừa được bật mở, giải phóng ra những luồng năng lượng sống cực kỳ mạnh mẽ để chảy tràn khắp nơi trong cơ thể cô bé. Cô bé nhảy chân sáo từng bước nhỏ bên cạnh cô Honey, những ngón tay vung vẩy khắp bốn phía, ríu rít nói cười như một chú chim sẻ nhỏ. Cứ nào là cô Honey ơi, cô Honey à, cô ơi em cảm thấy mình có thể dịch chuyển được tất cả mọi thứ ấy, chứ không chỉ có làm đổ cốc và những vật nho nhỏ giống thế đâu… Em cảm thấy như mình có thể lật đổ được cả những thứ như bàn ghế nữa đó, cô Honey… Kể cả là có người đang ngồi trên ghế thì em nghĩ mình vẫn có thể hất tung được họ ra đấy, và cả những thứ lớn hơn nữa, lớn hơn rất nhiều nữa ý… Em chỉ cần tập trung sức mạnh vào mắt một lúc để có thể bắn nó ra, cái sức mạnh này ấy, để đẩy bất cứ thứ gì cũng được, miễn là em tập trung nhìn vào nó đủ lâu. Em phải nhìn cực kỳ chăm chú đó cô Honey, cực cực kỳ chăm chú luôn, và rồi em có thể cảm nhận thấy nó diễn ra ngay trong mắt mình, rồi mắt em nóng rẫy cả lên như bị đốt ấy, nhưng mà em không phiền tí chút nào đâu, và cô Honey à… 

“Bình tĩnh chút đi nào, em, bình tĩnh chút đi nào.” cô Honey nói. “Trước mắt chúng ta hãy từ từ khám phá nó từng bước một đã, đừng có nôn nóng như vậy.” 

“Nhưng cô không thấy là nó cực kỳ thú vị sao, cô Honey?” 

“Ồ có chứ.” cô Honey nói. “Nó thậm chí còn hơn cả thú vị ấy chứ. Nhưng từ giờ chúng ta phải cực kỳ cẩn thận trong từng bước khám phá năng lực của em đó, Matilda à.” 

“Sao lại phải cẩn thận hả cô?” 

“Bởi vì chúng ta đang nói đến một thứ sức mạnh bí ẩn, cô bé ạ, một thứ mà chúng ta chẳng biết chút gì về nó hết. Tuy vậy, cô cũng không nghĩ rằng nó là thứ gì đó xấu xa. Nó cũng có thể rất tốt. Nó thậm chí còn có thể là món quà mà Chúa đã ban tặng cho em nữa đó, Matilda. Nhưng dù nó có tốt lành hay không, chúng ta cứ biết là phải cực kỳ cẩn thận khi xử lý với nó đã, được chứ?” 

Đó là những lời khuyên rất chí lý từ một người lớn thông thái, nhưng Matilda đang quá phấn khích và hào hứng để có thể hiểu thấu nổi những lý lẽ đó. “Em không hiểu làm sao lại phải cần cẩn thận đến thế?” cô bé nói, vẫn nhảy chân sáo quanh cô Honey. 

“Thì cô đang cố giải thích cho em hiểu đây,” cô Honey đáp một cách kiên nhẫn, “chúng ta đang đối mặt với một thứ mà chúng ta còn chưa biết rõ về nó. Hơn nữa đấy lại là một chuyện không thể lý giải nổi. Chính xác thì phải nói là kỳ lạ. Đây là một chuyện rất kỳ lạ.” 

“Thế em cũng kỳ lạ sao ạ?” Matilda hỏi. 

“Rất có thể đó, Matilda.” cô Honey nói. “Nhưng cô nghĩ ngay lúc này em không cần phải băn khoăn xem mình là gì hay mình như thế nào cả. Việc mà cô nghĩ chúng ta nên làm bây giờ là khám phá dần dần, từng chút một năng lực kỳ lạ này của em; chỉ hai cô trò mình thôi, và luôn luôn phải đảm bảo trong mọi lúc là phải tuyệt đối cẩn thận.” 

“Vậy cô muốn em thử làm lại việc đó phải không ạ?” 

“Đấy là điều mà cô đang muốn gợi ý đó.” cô Honey nói. 

“Ô-kê thôi ạ!” Matilda vui vẻ đáp. 

“Chính cô đây,” cô Honey nói, “có lẽ còn ngạc nhiên trước những gì em đã làm hơn em rất nhiều, và cô đang cố để tìm ra một lời giải thích hợp lý cho tất cả những chuyện này đây.” 

“Như kiểu thế nào ạ?” Matilda hỏi. 

“Ví dụ như là liệu việc này có liên quan gì tới việc em là một đứa trẻ đặc biệt sớm phát triển hay không?” 

“Tức là sao ạ?” Matilda hỏi. 

“Một đứa trẻ sớm phát triển,” cô Honey nói, “là một đứa trẻ ngay từ nhỏ đã sớm bộc lộ tài năng và trí tuệ của mình vượt xa hơn so với những người khác. Em chính là một đứa trẻ sớm phát triển đến khó tin đó, Matilda.” 

“Thật thế hả cô? Em ấy ạ?” Matilda hỏi. 

“Tất nhiên rồi. Hẳn em cũng phải tự nhận ra điều đó chứ. Cứ xem khả năng đọc sách, rồi khả năng làm toán của em mà xem.” 

“Có lẽ cô nói đúng.” Matilda nói. 

Cô Honey thầm thán phục trước việc ở cô bé này không hề có một chút nào tự kiêu, hay chí ít là sự tự ý thức nào về trí thông minh tuyệt vời của mình. 

“Cô không thể không tự hỏi,” cô nói, “là thứ năng lực này của em, dịch chuyển đồ vật bằng ý nghĩ ấy; là nó tự dưng đến với em, hay là nó có liên quan gì đến năng lực trí não của em hay không? Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, cô nhắc lại là chúng ta sẽ phải làm mọi thứ một cách cực kỳ cẩn thận. Cô vẫn chưa quên cái vẻ lơ mơ kỳ lạ như là đang ở một thế giới khác của em lúc nãy, khi em vừa đẩy đổ cái cốc trong lớp đâu.” 

“Cô nghĩ dùng đến năng lực đó có thể sẽ gây hại cho em sao, cô Honey?” 

“Em có nói là nó làm em có một cảm giác kỳ kỳ, đúng không?” 

“Ồ, nhưng những cảm giác lúc sau đó thì tuyệt lắm cô ạ.” Matilda nói. “Trong một tích tắc, em đã phóng vút lên cao đến nỗi chạm được cả vào những vì sao trên trời, với một đôi cánh bạc trên lưng; em đã nói với cô rồi mà. Với cả cô ơi, em thấy như lần thứ hai làm dễ hơn lần thứ nhất nhiều, hơn rất nhiều ấy. Em nghĩ có lẽ nó cũng giống như mọi thứ khác thôi, càng luyện tập nhiều thì sẽ càng trở nên dễ dàng hơn trước.” 

Cô Honey vừa lắng nghe, vừa cố ý đi chầm chậm để cô bé không phải chạy quá nhanh để theo kịp mình. Và giờ đây khi ngôi làng buôn bán tấp nập và nhộn nhịp đã ở xa phía sau lưng họ, cảnh vật xung quanh con đường hai cô trò đang đi bắt đầu mở rộng dần ra, hết sức tươi đẹp và thanh bình. Đó là một buổi chiều mùa thu nhuộm ánh mặt trời vàng óng; từng chùm quả mâm xôi đen và những bông hoa nở rộ hiện ra nơi những hàng cây bụi mọc hai bên ven đường; và trên những cành táo gai, những trái táo đỏ chín thơm đang đợi chờ những chú chim tới hái khi mùa đông lạnh tràn tới. Những thân cây sồi, cây tiêu huyền, cây tần bì, và thỉnh thoảng cả những cây dẻ gỗ nâu nữa, vươn cao lên và phủ tán xuống con đường. Cô Honey, muốn đổi chủ đề của câu chuyện, kể cho Matilda tên của tất cả các loại cây này, và dạy cho cô bé phân biệt được từng loài cây bằng cách quan sát hình dạng của lá và của những lớp vỏ gỗ trên thân cây. Matilda chăm chú lắng nghe và cẩn thận ghi nhớ những kiến thức đó vào thật sâu trong trí óc mình. 

Hai người cuối cùng dừng bước ở một khoảng trống trên hàng rào cây phía bên trái con đường, nơi có một cánh cổng nhỏ khép hờ đóng bằng gỗ đỏ. “Lối này.” cô Honey nói, mở cánh cổng ra và dẫn Matilda đi qua, rồi lại khép cổng lại như cũ. Có một hàng cây dẻ mọc dài dọc theo lối đi, và cô bé có thể thấy rõ từng chùm hạt dẻ nâu đang lấp ló trên những tán lá xanh rậm rì. Những con sóc sẽ đến đây để hái chúng sớm thôi, cô Honey nói, và chúng sẽ cẩn thận cất giữ những hạt dẻ này để dự trữ cho những tháng mùa đông lạnh lẽo sắp tới. 

“Vậy là cô sống ở tận đây ư?” Matilda hỏi. 

“Ừ.” cô đáp, không nói gì thêm nữa. 

Matilda chưa bao giờ nghĩ đến việc chỗ ở của cô Honey sẽ trông như thế nào. Cô bé trước giờ vẫn chỉ coi cô như là một giáo viên thôi, tức một người không biết từ đâu xuất hiện, đến dạy học ở trường, rồi lại biến mất mãi cho đến tiết học lần sau. Liệu có đứa trẻ nào, Matilda thầm nghĩ, thắc mắc xem liệu thầy cô giáo của mình sẽ đi về đâu mỗi khi giờ học kết thúc? Liệu có ai tự hỏi mình xem liệu người giáo viên đó sống một mình, hay ở ngôi nhà của họ còn có một người mẹ, một người chị, hay một người chồng đang ngóng chờ họ trở về? “Cô sống một mình ạ, cô Honey?” đột nhiên cô bé hỏi. 

“Ừ.” cô giáo đáp, “Cô sống một mình.” 

Đoạn đường chỗ họ đang đi qua giờ đóng đầy những mảng bùn đang khô lại dưới ánh mặt trời. Phải đặc biệt chú ý tới chỗ đặt bước chân, nếu không muốn bị vấp và té dập mặt. Còn có vài chú chim đang bay lượn qua lại bên những cành dẻ nữa, nhưng tất cả mọi thứ xung quanh cũng chỉ có thế, không hơn. 

“Đây chỉ là một căn nhà nhỏ của người làm nông thôi.” cô Honey nói. “Em đừng kỳ vọng gì nhiều quá nhé. Chúng ta đã gần đến nơi rồi đấy.” 

Họ tới gần một cánh cổng nhỏ sơn màu xanh lá cây phía bên phải; gần như hoàn toàn bị che khuất bởi những nhành dẻ um tùm vươn ra từ phía bên phải vệ đường. Cô Honey đặt tay lên trên cánh cổng gỗ nhỏ và nói: “Đây rồi, đến rồi đó. Đây là nơi cô ở.” 

Matilda thấy trước mặt mình là một con đường đất, dẫn vào một ngôi nhà nhỏ xây bằng gạch. Ngôi nhà nhỏ đến nỗi trông nó giống một ngôi nhà dành cho búp bê hơn là cho người ở. Những viên gạch xây nhà đều đã rất cũ, giòn và ngả sang một thứ màu đỏ thẫm gần như đen. Nó có một cái mái nhà lợp ngói màu xám và một cái ống khói nho nhỏ; và có hai cái cửa sổ nho nhỏ phía trước ngôi nhà. Mỗi khung cửa không hề lớn hơn một tờ báo gấp làm đôi, và rõ ràng là ngôi nhà này chỉ có duy nhất một tầng. Ở hai bên ngôi nhà là những bãi trống lớn mọc đầy rẫy tầm ma, những bụi cây mâm xôi và đủ các loại cỏ dại khác. Một cây sồi to khổng lồ mọc ngay gần đó phủ bóng lên ngôi nhà. Những cành gỗ to lớn và nặng nề của nó vươn ra xung quanh như thể đang âu yếm ôm lấy ngôi nhà nhỏ xíu bên dưới, cũng như che chắn nó khỏi phần còn lại của thế giới. 

Cô Honey, đặt một tay lên trên cánh cổng nhưng vẫn chưa mở nó ra, quay về phía Matilda và nói: “Có một nhà thơ tên là Dylan Thomas từng viết những câu thơ như thế này, mà cứ mỗi lần bước ngang qua đây là cô lại liên tưởng tới chúng.” 

Và rồi, với một chất giọng thật ngọt ngào và dịu dàng, cô Honey bắt đầu đọc lên những câu thơ: 

“Đừng bao giờ đến, cô bé, những miền đất xa xăm, 
Nơi có câu chuyện cổ; nơi phép màu say ngủ, 
Em sẽ sợ hãi khi tin rằng dưới lốt cừu trắng kia là loài sói dữ, 
Bước chân hạnh phúc và vô lo; tiếng ca em hồn nhiên và trong trẻo 
Những tháng ngày đẫm sương, 
Một chùm lá buông mình rơi khỏi một cành gỗ nhỏ 
Hãy giữ mãi trái tim em trong ngôi nhà gỗ đỏ, màu đỏ cánh hoa nhung.” [1]

Một khoảnh khắc im lặng phủ lấy khoảng không sau khi những câu thơ kết thúc; và Matilda, người chưa bao giờ được nghe những câu thơ lãng mạn đến tuyệt diệu như thế, hoàn toàn bị rung động trước những âm điệu huyền diệu đầy mê hoặc của lời thơ. “Nghe giống như một khúc nhạc vậy,” cô bé thì thầm. 

“Nó chính là âm nhạc,” cô Honey nói. Và rồi, như có chút xấu hổ vì vừa mới tiết lộ một phần bí mật của cuộc sống của mình, cô nhanh nhẹn đẩy cánh cổng ra và vội vã bước vào. Matilda vẫn đứng nguyên tại chỗ. Cô bé bắt đầu thấy hơi sờ sợ nơi này. Nó quá tách biệt, quá huyền ảo, gần như không có thực và gần như không thuộc về thế giới này. Khung cảnh và ngôi nhà nhỏ kia trông hệt như những bức vẽ minh họa từ cuốn truyện cổ Grim hay từ những câu chuyện của An-đéc-xen. Đây là ngôi nhà nơi người tiều phu nghèo sống với Hansel và Gretel; là nơi bà ngoại của Cô bé quàng khăn đỏ sống; là ngôi nhà của Bảy chú lùn và của tất cả những nhân vật quen thuộc khác… tất cả cứ như vừa được kéo thẳng ra từ một câu chuyện cổ tích vậy. 

“Đi thôi nào em!” Cô Honey gọi, và Matilda vội vã bước theo cô. 

Cánh cửa trước được phủ một lớp sơn màu lá mạ đã cũ, nhiều chỗ đã bong cả ra, và chẳng hề có một lỗ khóa nào cả. Cánh cửa chỉ đơn giản được gài lại bằng một thanh chốt nhỏ bằng gỗ thôi. Cô Honey nhẹ nhàng nhấc thanh chốt lên, mở cửa và bước vào trong. Mặc dù chẳng lấy gì làm cao lắm, nhưng cô Honey vẫn phải khom mình xuống một chút mới có thể bước qua được khung cửa nhỏ xíu của ngôi nhà. Matilda bước liền theo sau cô. Cô bé bước vào căn nhà mà như cảm thấy mình vừa chui vào một cái đường hầm, hẹp và tối thui. 

“Em cũng vào bếp và giúp cô pha trà nhé,” cô Honey nói, và dẫn lối cho cô bé về hướng nhà bếp - nếu bạn có thể gọi nó là một cái nhà bếp. Nó chỉ rộng hơn một cái tủ quần áo loại lớn một chút, với một cái cửa sổ phía sau, bên dưới là một chiếc bồn rửa nhỏ, nhưng trên bồn rửa lại không có vòi nước. Dựa vào bức tường bên cạnh là một cái kệ, có lẽ dùng để chuẩn bị thức ăn, và phía trên cái kệ là một cái tủ chén bé xíu. Trên cái kệ đặt một cái bếp Primus[2], một cái chảo rán, và một chai sữa còn đầy khoảng một phần hai. 

“Em hãy đi lấy nước trong khi cô nhóm bếp nhé,” cô Honey nói. “Giếng nước ở đằng sau nhà đó. Có cái tời dây ở sẵn trong đó rồi, em chỉ cần móc cái xô vào đầu sợi dây rồi hạ nó xuống thôi; mà cẩn thận kẻo ngã đấy nhé.” Matilda liền xách cái xô nhỏ ra khu vườn phía sau nhà. Cái giếng có một khung mái nho nhỏ đóng bằng gỗ, phía trên còn gắn một cái chong chóng gió. Một sợi dây tời cuốn vào trục ròng rọc đang lơ lửng đung đưa phía trên một cái miệng giếng đen sâu hun hút không thấy đáy. Matilda kéo sợi tời lên và buộc cái quai xách của cái xô vào đó. Rồi cô bé hạ dần chiếc xô xuống cho đến khi nghe thấy một tiếng “Tõm!” và sợi dây căng hẳn ra. Cô bé lại kéo nó trở lên, và giờ cô bé đã có một cái xô đầy ăm ắp nước trong vắt. 

“Chừng này đủ chưa hả cô?” cô bé hỏi khi mang nó vào tới nhà bếp. 

“Cũng được rồi,” cô Honey nói. “Cô đoán là em chưa làm việc này bao giờ, phải không?” 

“Vâng,” cô bé đáp. “Cũng thích thích cô ạ. Mà thế này thì mỗi lần lấy nước vào bồn tắm thì phải lấy bao nhiêu lần mới đủ hả cô?” 

“Ồ, cô không có tắm bồn,” cô Honey nói. “Cô tắm đứng. Cô lấy một xô đầy nước và đặt nó trên bếp cho nước nóng lên, rồi cô cởi bỏ quần áo và xối nước lên mình để tắm thôi.” 

“Thật ấy ạ?” Matilda kinh ngạc hỏi. 

“Tất nhiên rồi,” cô Honey đáp. “Chỉ không lâu trước đây, mọi người nghèo ở Anh đều tắm kiểu đó cả. Và họ thậm chí còn không có cả bếp Primus như cô đâu. Họ phải đun nước trong lò sưởi đấy.” 

“Cô nghèo lắm sao, cô Honey?” 

“Ừ,” cô giáo đáp. “Rất nghèo. Mà đây cũng là một cái bếp tốt đấy chứ, phải không?” Cái bếp Primus đang reo lên những ngọn lửa xanh mạnh mẽ, và chẳng mấy chốc chỗ nước trong cái chảo rán đã bắt đầu sôi ùng ục. Cô Honey lấy xuống một chiếc ấm trà từ trên tủ chén và cho một ít lá trà khô vào đó. Cô cũng đồng thời lấy ra thêm một mẩu bánh mì nâu nữa. Cô cắt ra vài lát bánh nhỏ rồi kéo một cái hộp nhựa đựng bơ thực vật ra và phết lên mỗi lát bánh một chút bơ. 

Bơ thực vật, Matilda thầm nghĩ. Cô giáo đúng là thực sự rất nghèo. 

Cô Honey dọn ra một cái khay và bày lên trên đó hai cái tách, cái ấm trà, chai sữa còn một phần hai, và một cái đĩa nhỏ đựng hai miếng bánh mì. “Cô e là mình không có đường,” cô giáo nói. “Cô không có ăn đến chúng.” 

“Dạ không sao đâu ạ,” Matilda đáp. Cô bé đủ thông minh để nhận ra mức độ nhạy cảm của tình huống lúc này, và cô bé hiểu mình phải rất cẩn trọng mỗi khi nói gì đó để tránh làm bẽ mặt gia chủ. 

“Rồi, giờ thì chúng ta sang phòng khách để dùng trà nhé,” cô Honey nói, rồi nhấc khay trà lên và dẫn Matilda ra khỏi nhà bếp, theo cái đường hầm tối thui dẫn ra căn phòng ở chính giữa nhà. Matilda bước theo cô, nhưng vừa mới đến cái khoảnh sàn bé tí trước cửa chính được gọi là “phòng khách” này, cô bé lập tức đứng khựng lại và kinh ngạc quan sát xung quanh. Căn phòng có hình vuông, bé xíu và kín bưng như một gian nhà ngục. Nguồn sáng duy nhất của căn phòng là thứ ánh sáng mặt trời yếu ớt lọt qua khung cửa sổ nhỏ xíu phía trước nhà, hoàn toàn không có rèm cửa. Những thứ có trong căn phòng này chỉ gồm hai cái hộp gỗ úp ngược xuống dùng để làm ghế, và một cái hộp thứ ba lớn hơn đặt giữa chúng để làm bàn. Tất cả chỉ có thế. Không có tranh treo tường; cũng không có thảm trải sàn, chỉ có mặt sàn gỗ xù xì và cứng ngắc, đầy rẫy những khe hở mà đủ thứ bụi bặm và rác rến nhỏ đã nhồi vô cứng ngắc. Trần nhà thấp đến nỗi chỉ cần nhảy lên một cái là Matilda đã có thể chạm tới. Tường có màu trắng, nhưng không có vẻ là thứ màu có được do quét sơn. Matilda xoa xoa bàn tay vào một bên tường và những lớp bụi trắng bong ra, bám đầy lên da tay cô bé. Đấy là nước vôi, thứ màu quét rẻ tiền vẫn thường chỉ được dùng để sơn phết những cái chuồng ngựa hay chuồng gà. 

Matilda kinh hãi ngó xung quanh. Đây thực sự là nơi mà một cô giáo luôn chỉnh tề, luôn gọn gàng và sạch sẽ như cô Honey ở ư? Nơi mà cô giáo trở về sau mỗi ngày làm việc chỉ có thế này thôi ư? Thật không thể tin được. Tại sao lại thế chứ? Chắc chắn phải có một bí ẩn gì đó ở đây, chắc chắn thế. 

Cô Honey đặt chiếc khay xuống một cái hộp gỗ. “Ngồi xuống đi em,” cô nói. “Giờ cô trò mình cùng dùng vài tách trà nóng nhé. Em ăn miếng bánh đi. Cả hai miếng đều là của em hết đó. Cô chẳng bao giờ ăn gì ở nhà cả đâu. Cô luôn dùng một bữa thật no ở trường, và chừng đó là đủ cho cô đến tận sáng hôm sau rồi.” 

Matilda cẩn thận ngồi xuống một chiếc hộp gỗ, và vì lý do lịch sự nhiều hơn là vì đói, cô bé với tay lấy một lát bánh mì phết bơ thực vật và cắn một miếng nhỏ. Nếu là ở nhà mình thì cô bé đã không ngần ngại chén sạch một ổ bánh mì nướng phết bơ và đường kèm với mứt dâu tây, và có lẽ là một đĩa bánh ngọt để tráng miệng nữa. Thế nhưng không hiểu sao, cô bé lại thấy thế này thú vị hơn. Có một bí ẩn nơi ngôi nhà nhỏ xíu này, một bí ẩn rất lớn, không phải nghi ngờ gì hết, và Matilda đang rất nóng lòng được khám phá xem bí ẩn đó là gì đây. 

Cô Honey rót trà và cho thêm một chút sữa vào hai cái tách. Cô chẳng có vẻ gì ngại ngần khi ngồi trên một cái thùng gỗ trong một căn phòng trống trơn, dùng trà trong một chiếc tách được cô đặt trên đầu gối của mình. 

“Em biết không,” cô nói, “cô đã nghĩ rất nhiều về việc em đã làm với cái cốc lúc tiết học chiều nay. Đó là một năng lực tuyệt diệu đã được thánh thần trao cho em đó, em biết chứ?” 

“Dạ có, thưa cô Honey,” Matilda nói, đưa lát bánh lên môi và cắn thêm một miếng nhỏ nữa. 

“Theo như cô biết,” cô giáo nói tiếp, “chưa từng có một ai tự cổ chí kim có thể khiến một thứ gì đó chuyển động mà không chạm vào hay thổi nó hay dùng đến sự giúp đỡ từ bên ngoài cả; trừ em.” 

Matilda gật đầu, nhưng không nói gì hết. 

“Điều thú vị nhất,” cô Honey nói, “sẽ là tìm hiểu xem giới hạn thực sự của năng lực này của em là đến đâu. Ồ, và cô biết là em tin rằng mình có thể dịch chuyển được mọi thứ, nhưng cô hơi có chút nghi ngờ về điều đó đấy.” 

“Vậy em sẽ thử với một thứ gì đó đặc biệt lớn.” Matilda nói. 

“Và còn khoảng cách thì sao?” cô Honey hỏi. “Liệu em có cần phải ở gần một vật nào đó để có thể dịch chuyển được nó không?” 

“Em cũng không biết nữa,” Matilda nói. “Nhưng em sẽ thử tìm hiểu xem sao.” 

____________________________________ 

[1] Đoạn thơ trên chỉ là phỏng dịch. Xin được thứ lỗi, vì hạn chế khả năng nên người dịch không thể cung cấp được cho bạn đọc một bản dịch sát nghĩa hơn. 

Đoạn thơ gốc xuất hiện trong nguyên tác, trích từ khổ thơ đầu của bài thơ “In Country Sleep” của nhà thơ nổi tiếng người Anh Dylan Thomas, như sau: 

Never and never, my girl riding far and near 
In the land of the hearthstone tales, and spelled asleep, 
Fear or believe that the wolf in a sheepwhite hood 
Loping and bleating roughly and blithely shall leap, 
My dear, my dear, 
Out of a lair in the flocked leaves in the dew dipped year 
To eat your heart in the house in the rosy wood. 

[2] Bếp Primus là một loại bếp nhỏ dùng chủ yếu cho những buổi đi cắm trại. Người ta cho cồn khô hoặc paraphin vào, nhóm lửa ở phía trên rồi dùng một dụng cụ để bơm khí vào cho lửa cháy mạnh hơn. (Chú thích của tác giả).