Có một điều rất tuyệt vời ở Matilda, đấy là nếu bạn ngẫu nhiên gặp và nói chuyện với cô bé, bạn sẽ nghĩ cô bé chỉ là một bé gái năm-tuổi-rưỡi hoàn toàn bình thường. Cô bé gần như không biểu lộ ra ngoài bất cứ dấu hiệu nào về trí thông minh của mình, và cô bé không bao giờ thể hiện ra với ai là mình giỏi hơn người khác. “Thật là một đứa bé nhạy cảm và kín đáo”, bạn sẽ phải tự nhủ với mình như vậy. Và trừ khi bạn có một cuộc tranh luận với cô bé về ngữ văn hay toán học, bạn có thể sẽ không bao giờ biết đến sự phát triển kỳ diệu về trí tuệ nơi Matilda.
Bởi vậy, Matilda có thể kết bạn với những đứa trẻ khác rất dễ dàng. Tất cả các bạn cùng lớp đều rất thích cô bé. Tất nhiên chúng đều biết cô bé rất thông minh, bởi cả lớp đều đã nghe cô bé trả lời những câu hỏi hóc búa của cô Honey ngay ngày đầu tiên của năm học. Chúng cũng biết là cô bé được phép yên lặng ngồi đọc sách trong lớp mà không cần phải chú ý tới bài giảng. Nhưng trẻ con ở tuổi ấy không giống với người lớn. Trẻ con không đi quá sâu vào tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của mọi vấn đề. Chúng đã quá bị cuốn hút vào thế giới nhỏ bé của riêng mình để có thể mất công thắc mắc xem tại sao ai đó lại làm gì.
Trong những người bạn mới quen của Matilda, có một cô bé tên là Lavender. Hai cô bé đã đi loanh quanh với nhau trong những giờ ra chơi và giờ nghỉ ăn trưa ngay từ những ngày đầu của năm học. Lavender trông khá là nhỏ nhắn so với tuổi của mình; một cô bé mảnh khảnh, với đôi mắt màu nâu đậm và mái tóc đen cắt ngắn, lòa xòa trước trán. Lavender có tính can đảm và thích phiêu lưu, đấy là những điểm mà Matilda rất thích ở cô bé; và Lavender thích Matilda cũng chính xác vì những điều như vậy.
Ngay trước khi tuần học đầu tiên kết thúc, những giai thoại về cô Hiệu trưởng Trunchbull bắt đầu lan truyền đi tới tất cả các lớp khối Một trong cả trường. Vào ngày thứ ba kể từ lúc Matilda nhập học, khi Matilda và Lavender đang thơ thẩn trong một góc sân vào giờ ra chơi buổi sáng, hai cô bé bắt gặp một học sinh lớp trên; khoảng mười tuổi, trông mặt mũi có phần thô kệch, với một cái mụn to đùng mọc trên mũi; tên là Hortensia. “Ma mới hả?” Hortensia nói, nhìn xuống hai cô bé từ cái cổ cao lêu nghêu của mình. Cô nhóc vừa nói vừa ngấu nghiến một túi khoai tây chiên to bự tổ chảng. “Chào mừng tới nhà ngục trẻ em.” cô nhóc nói tiếp, vừa nói miệng vừa phun ra hàng vốc hàng vốc vụn khoai tây, như mưa tuyết bay.
Hai cô bé con, đứng đối diện với kẻ khổng lồ mới đến, vẫn chỉ im lặng và quan sát đối phương.
“Hai đứa bây đã gặp mụ Trunchbull chưa?” cô nhóc lớp trên hỏi.
“Tụi em có nhìn thấy cổ một lần ở buổi cầu kinh.” Lavender đáp. “Nhưng tụi em chưa gặp trực tiếp cổ bao giờ.”
“Thế thì mấy đứa nên chuẩn bị tinh thần mà tiếp đón mụ sớm đi.” Hortensia nói. “Mụ ta đặc biệt ghét trẻ con, càng nhỏ thì mụ càng ghét. Khối lớp Một là cái khối mà mụ ta ghét nhất. Mụ ta nghĩ lũ trẻ con năm tuổi là lũ côn trùng còn non, một lũ nhộng chưa phát triển hết thành ruồi và bọ.” Dừng lời lại để tọng thêm một nắm tay đầy khoai chiên nữa vào miệng, rồi vừa nói vừa phun phì phì ra những mẩu vụn khoai tây, Hortensia nói tiếp. “Chỉ cần sống qua được năm đầu tiên là mấy nhóc có thể tồn tại được hết năm năm tiếp theo ở cái trường này. Nhưng nào có mấy ai sống sót được đâu; hầu hết bọn chúng đều bị khiêng ra khỏi đây trên những cái cáng, miệng vẫn còn gào khóc thảm thiết. Chuyện đấy tao nhìn thấy suốt, đến mức chẳng còn thấy lạ nữa.”
Hortensia dừng lại một chút để chiêm ngưỡng vẻ sợ sệt trên mặt hai đứa nhỏ khi nghe kể đến những điều đó, nhưng chẳng thấy gì thay đổi ở hai cô bé cả. Chúng vẫn giữ được một vẻ hết sức bình tĩnh. Vậy nên cô nhóc lớp trên quyết định sẽ hù tiếp tụi nhỏ bằng nhiều thông tin đáng sợ hơn nữa.
“Tao nghĩ chắc tụi bây cũng đã nghe đến việc trong văn phòng của mụ Trunchbull có một cái tủ chén có khóa gọi là cái “Khám gỗ”[1]? Bọn bay đã nghe đến cái “Khám gỗ” đó bao giờ chưa?”
Matilda và Lavender lắc đầu, và lại tiếp tục ngẩng lên im lặng quan sát kẻ khổng lồ mới đến. Là những kẻ nhỏ bé, hai cô bé có khuynh hướng không tin vào những kẻ to lớn hơn mình, đặc biệt là những đứa con gái lớp trên.
“Cái ‘Khám gỗ’,” Hortensia nói tiếp: “là một cái tủ gỗ đựng chén khá cao, nhưng mà bề ngang thì lại rất hẹp. Cái mặt đáy tủ rộng không đến nửa mét vuông nên có muốn ngồi bệt xuống hay thậm chí chỉ ngồi chồm hỗm thôi cũng không được; nếu bị nhốt vào trong đó là bắt buộc phải đứng. Ba mặt tủ được trét xi măng rồi gắn chi chít toàn kính vụn với mẩu thủy tinh lên, nên cũng đừng hòng mà dựa được vào thành tủ cho đỡ mỏi chân. Mày gần như sẽ phải tuyệt đối đứng nghiêm trong suốt quãng thời gian bị phạt nhốt ở trong đó. Vô cùng, vô cùng kinh khủng đấy.”
“Vậy ít ra mình cũng có thể dựa được vào cái cửa tủ chứ?” Matilda hỏi.
“Đừng có tưởng bở!” Hortensia nói. “Hai cánh cửa tủ có đến cả trăm ngàn cái đinh nhọn hoắt nhô ra. Đám đinh đó bị đóng vào cửa tủ từ bên ngoài, có khi do chính tay mụ Trunchbull làm ấy chứ.”
“Chị đã phải vào đó lần nào chưa?” Lavender hỏi.
“Ngay từ hồi học kỳ đầu tiên tao đã phải vào trong đó sáu lần.” Hortensia đáp. “Có hai lần bị phạt nhốt cả ngày, những lần còn lại thì mỗi lần hai tiếng. Nhưng chỉ hai tiếng thôi cũng đã đủ tệ lắm rồi. Ở trong đó tối đen như mực, không nhìn được cái gì hết; hơn nữa lúc nào cũng phải giữ nguyên tư thế đứng thẳng đơ như một cái xác chết; nếu mà cựa quậy dù chỉ một chút là bị mảnh kính ở thành hoặc đầu đinh nhọn đóng ở cửa tủ ghim vào thịt ngay.”
“Sao chị lại bị phạt phải vào trong đó vậy?” Matilda hỏi. “Chị bị tội gì?”
“Lần thứ nhất,” Hortensia nói: “là vì tao đã đổ gần hết một chai si-rô lên chiếc ghế quen thuộc mà mụ ấy vẫn hay ngồi mỗi khi đi lễ nhà thờ. Hay cực nhé. Mụ ta đặt mông xuống cái ghế bị trét đầy si-rô, thế là một tiếng “Phẹp!” vang lên rõ to, không khác chi tiếng chân của một con hà mã to bành tổ chảng vừa dẫm lên lớp bùn ở bờ sông Limpopo. Nhưng bọn nhãi con còn thò lò mũi xanh như chúng mày chắc chưa được đọc cuốn “Những câu chuyện như thế” đâu nhỉ?”
“Em đọc cuốn đó rồi.” Matilda nói.
“Đừng có nói dối.” Hortensia nhẹ nhàng nói. “Tụi bây còn chưa được học đọc nữa. Nhưng không sao. Thế là khi mụ Trunchbull ngồi phải cái ghế dính si-rô, một tiếng “Phẹp!” vô cùng tuyệt vời vang lên. Mụ ấy ngay lập tức nhảy dựng lên, và cái ghế kiểu như bị dính theo với cái mông quần của mụ nên cũng bị kéo lên theo mất vài giây, cho đến khi cái món nước si-rô lỏng dần ra và cái ghế rơi lại xuống đất. Mụ ta ngay lập tức đưa tay kiểm tra lại mông quần, và thế là hai tay mụ cũng dính đầy toàn món nước si-rô đặc quánh đó luôn. Ôi, giá mà chúng mày được nghe tiếng rống của mụ ấy lúc đó nhỉ.”
“Nhưng rồi làm thế nào cổ biết thủ phạm là chị?” Lavender hỏi.
“Một thằng nhãi con khốn kiếp tên là Ollie Bogwhistle đã xì đểu tao vụ đó.” Hortensia đáp. “Tao đã đấm cho nó bay luôn cả mấy cái răng cửa.”
“Và mụ Trunchbull đã nhốt chị vào cái Khám gỗ trong suốt cả một ngày?” Matilda hỏi.
“Đúng, suốt cả một ngày.” Hortensia đáp. “Lúc được thả ra tao gần như đã phát rồ luôn. Tao cứ liên tục lảm nhảm một mình như một đứa bệnh vậy.”
“Thế còn những lần khác thì sao? Chị đã làm gì để lại bị tống vào cái Khám gỗ đó vậy?” Lavender hỏi.
“Ôi, giờ tao cũng chẳng nhớ nổi nữa.” Hortensia trả lời. Cô nhóc nói với cái giọng của một người chiến binh đã trải qua vô vàn trận ác chiến, đến nỗi lòng dũng cảm của người chiến binh cũng đã trở thành một thứ quá đỗi bình thường. “Cũng lâu quá rồi.” cô nhóc nói tiếp, nhồi thêm vài nắm khoai tây chiên nữa vào miệng. “À phải, tao nhớ có một vụ như thế này. Tao rình đúng lúc mụ Trunchbull đang dạy học cho bọn khối Sáu, và tao giơ tay xin ra ngoài đi vệ sinh, nhưng thực chất là lẻn vào trong văn phòng của mụ ấy. Sau một hồi tìm kiếm, tao đã phát hiện ra cái ngăn kéo cất đồ lót mặc đi tập thể thao của mụ.”
“Rồi sao nữa ạ?” Matilda nói, hoàn toàn chú tâm vào câu chuyện. “Chị kể tiếp đi.”
“Trước đó tao đã đặt mua qua đường bưu điện một loại bột ngứa siêu mạnh,” Hortensia nói. “giá năm mươi xu một hộp. Thuốc đó tên là ‘Bột rát da’. Trên nhãn thuốc ghi là món đó được làm từ bột mài ra từ răng của những con rắn cực độc, và nó được đảm bảo là sẽ có thể tạo ra những vết ngứa to cỡ hột lạc trên da người ta. Vậy nên tao đã nhẹ nhàng rắc thứ bột đó vào trong từng cái quần lót một, sau đó lại lần lượt gấp từng cái lại trả về chỗ cũ như trước.” Hortensia nói đến đây thì ngừng để tống thêm khoai tây chiên vào miệng.
“Vậy chị có thành công không?” Lavender hỏi.
“Có.” Hortensia đáp. “Một vài ngày sau, đang lúc giữa buổi cầu kinh, mụ Trunchbull đột nhiên gãi quành quạch như điên ở phía dưới. Thế là tao thầm reo lên ‘À há! Dính bẫy rồi! Mụ ta đã thay đồ để đi tập thể thao rồi đấy!’ Cái cảm giác lúc đó thật là tuyệt, khi được ngồi đó và chiêm ngưỡng tất cả, và biết là chỉ có một mình mình trong cái trường này là biết được chuyện gì đang xảy ra với cái quần của mụ Trunchbull. Và tao cũng cảm thấy rất an toàn nữa. Tao biết là tao sẽ không thể bị tóm được. Rồi cái màn gãi đó còn trở nên tệ hơn: Mụ ấy không thể dừng gãi lại được. Tao chắc mụ ấy hẳn phải thấy như có cả một cái tổ ong vò vẽ trong quần mình ấy chứ. Và rồi, ngay lúc tất cả đang làm lễ nguyện thánh, mụ đứng vụt dậy, ôm mông mà chạy thục mạng ra khỏi phòng.”
Cả Matilda và Lavender đều cảm thấy vô cùng thích thú. Hai cô bé đã nhận thức rõ ràng rằng ngay lúc này, đứng trước mặt chúng đây là một bậc thầy về chơi khăm. Đây là người đã đưa việc chơi xỏ ai đó lên một đẳng cấp mới của sự hoàn hảo; và hơn thế nữa, là một kẻ đã sẵn sàng mạo hiểm cả tính mạng để theo đuổi tiếng gọi của con tim. Chúng ngẩng lên nhìn vị nữ thần đang đứng trước mặt chúng với tất cả mọi sự tôn kính; và bất ngờ, đến cả cái mụn to đùng trên mũi nó bây giờ cũng không còn xấu xí nữa, mà như một chiếc huy chương trao tặng cho lòng dũng cảm hiếm có của con người này.
“Nhưng vậy thì làm thế nào mà lần đó cổ lại kiếm được bằng chứng tố cáo chị vậy?” Lavender hỏi, gần như nghẹt thở vì phấn khích.
“Mụ ta đâu có tìm ra chứng cứ gì.” Hortensia đáp. “Nhưng kết cục là lần đó tao vẫn phải vào đứng phạt cả ngày trong cái Khám gỗ như thường.”
“Sao lại thế?” cả hai cô bé cùng kêu lên.
“Mụ Trunchbull,” Hortensia nói: “có thói quen là không dò được thì đoán. Khi không tìm ra được thủ phạm là ai, mụ ta sẽ tự suy đoán ra thủ phạm; mà rắc rối là ở chỗ mụ lại thường hay đoán đúng. Lần đó tao lại là nghi can số một, sau vụ cái ghế dính nước si-rô; thế nên mặc dù tao biết mụ ấy chẳng có đến một mẩu bằng chứng nào hết, chẳng có gì tao nói lại giúp ích gì được cả. Tao cứ hét lên ‘Sao thủ phạm lại là em được, thưa cô Trunchbull? Em thậm chí còn không biết cô cất quần áo ở trường nữa mà! Em cũng không biết bột gây ngứa là cái gì hết! Em chưa bao giờ nghe đến thứ gì như thế cả!’ Nhưng dù có nói thế nào cũng thoát thân được, mặc cho tao đã diễn xuất rất đạt. Mụ Trunchbull chỉ đơn giản túm lấy một bên tai tao rồi lôi xềnh xệch tao đến vào cái Khám gỗ lần thứ hai, khóa trái cửa tủ lại và nhốt tao ở trong đó cả ngày. Đó là lần thứ hai tao bị phạt phải đứng cả ngày. Quả là một trò tra tấn thực sự. Đến lúc được thả ra, khắp người tao đều bị đinh đâm và vết mảnh kính cứa thì chi chit khắp từ trên xuống dưới.”
“Nghe giống như một cuộc chiến vậy.” Matilda kính nể nói.
“Mày nói đúng đấy, giống như một cuộc chiến vậy.” Hortensia nói. “Và con số thương vong vẫn tăng lên không ngừng. Chúng ta là những kẻ đứng lên chiến đấu vì lẽ phải, một đội quân anh dũng quyết chiến đến hơi thở cuối cùng vì cuộc sống của chính mình mà trong tay gần như không có một manh giáp; bởi mụ Trunchbull, kẻ thù của chúng ta, là chúa tể của bóng đêm, là con ác xà đầy gian trá, là một con rồng phun lửa với đầy đủ vũ khí trong tay. Đó là một cuộc chiến vô cùng gian lao và vất vả. Chúng ta luôn phải cố gắng tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau hết mức có thể của mình.”
“Chị có thể tin tưởng nơi chúng em,” Lavender nói, cố gắng kiễng chân lên thật cao.
“Không thể được,” Hortensia đáp. “Tụi bây chỉ là một lũ nhóc con. Nhưng ai biết được; có khi sau này bọn tao lại phải cần đến mấy đứa cho những công việc do thám ngầm.”
“Chị nói thêm cho bọn em biết về những gì mụ ấy làm được không?” Matilda nói. “Làm ơn đi mà.”
“Không được, tao không thể dọa cho chúng bay sợ mất vía khi mới vào học có một tuần được.” Hortensia nói.
“Không sao đâu ạ.’ Lavender đáp. “Bọn này cũng can đảm lắm đó.”
“Vậy thì nghe đây.” Hortensia nói. “Vừa mới hôm qua thôi, mụ Trunchbull tóm được một thằng nhóc tên là Julius Rottwinkle đang ăn vụng kẹo trong giờ học Kinh Thánh; và thế là mụ ta nhấc nó lên bằng một tay và cho nó phi thẳng ra khỏi cửa sổ lớp học đang mở. Phòng học của bọn tao ở ngay tầng phía trên, nên bọn tao đã được trông thấy thằng Julius Rottwinkle lao thẳng xuống khu vườn phía dưới, rồi hạ cánh bằng một cú đập thẳng vào mặt mạnh như trời giáng xuống ngay giữa mấy luống rau. Sau đó mụ Trunchbull quay lại nhìn lũ học sinh và nói: “Từ giờ đứa nào bị bắt ăn quà vặt trong giờ học sẽ bay thẳng ra ngoài cửa sổ như thế đó, rõ chưa?!”
“Vậy bạn Julius Rottwinkle đấy có bị gãy cái xương nào không ạ?” Lavender hỏi.
“Gãy đến mấy cái chả hết ấy chứ.” Hortensia nói. “Tụi bây nên nhớ mụ Trunchbull từng là vận động viên ném tạ xích của đội tuyển Anh trong Olympic đấy; bởi thế nên mụ ta luôn hết sức tự hào về cánh tay phải của mình.”
“Ném tạ xích là gì thế ạ?” Lavender hỏi.
“Cái quả tạ xích,” Hortensia nói: “thực chất là một quả đạn đại bác to tổ bố, có hàn với một sợi xích sắt, và người ném sẽ túm lấy sợi xích đó mà quay thật nhanh quanh người mình, càng lúc càng nhanh hơn, và rồi đột ngột buông nó ra. Để làm được thế cần phải là người có sức khỏe đến khủng khiếp; như mụ Trunchbull vậy. Mụ ta sẽ ném bất cứ thứ gì vừa tầm tay của mụ, đặc biệt là trẻ em.”
“Lạy Chúa.” Lavender nói.
“Có một lần tao đã nghe mụ ấy nói về một thằng nhóc béo ú,” Hortensia kể tiếp: “là cân nặng của nó vừa vặn ngang với một quả tạ xích dùng để thi đấu trong Olympic, và do đó rất là hữu dụng cho mụ luyện tập.”
Đúng lúc đó có một chuyện lạ xảy ra. Sân trường, mới chỉ vừa trước đó còn đang tràn ngập tiếng nô đùa và tiếng hò hét của lũ trẻ, đột ngột trở nên yên lặng không khác gì một cái nghĩa trang. “Cẩn thận đấy.” Hortensia thì thào nói. Matilda và Lavender ngoái lại nhìn, và trông thấy ngay cái thân hình khổng lồ của hiệu trưởng Trunchbull nện bước qua đám đông những học sinh, với những sải bước dài đầy oai vệ. Bọn trẻ tự động bước lùi ra sau để nhường lối cho mụ; và cái hành động rẽ cả một đám đông nhung nhúc những là người để bước đi qua của mụ không khác gì Moses[2] năm xưa điềm tĩnh bước ngang qua Biển Đỏ, khi toàn bộ nước biển đã dạt sang hai bên để nhường lối cho ông. Trông bà ta mới kinh khủng và đáng sợ làm sao, trong cái quần bó màu ve chai và cái thắt lưng mặt bạc to đùng ấy. Và dưới bắp vế của bả là từng khối từng khối cơ bắp cuồn cuộn bên dưới lớp vớ bó sát lấy da chân. “Amada Thripp!” mụ hét lên. “Mi, Amada Thripp! Tới đây!”
“Giữ chặt lấy mũ nhé.” Hortensia thì thào.
“Chuyện gì đang sắp sửa diễn ra vậy?” Lavender thì thầm hỏi.
“Cái con bé Amanda ngốc nghếch ấy,” Hortensia nói: “đã nuôi tóc dài trong suốt cả kỳ nghỉ và mẹ nó đã tết tóc thành bím cho nó. Đúng là một việc làm không thể ngu xuẩn hơn được.”
“Sao lại là ngu xuẩn?” Matilda hỏi.
“Nếu có một thứ mà mụ Trunchbull không thể nào chịu nổi, thì đó chính là mấy cái bím tóc của bọn con gái.” Hortensia đáp.
Matilda và Lavender nhìn tên khổng lồ trong cái quần chẽn màu ve chai hùng hổ tiến về phía một bé gái khoảng mười tuổi, với hai bím tóc vàng óng được tết cẩn thận, buông xuống hai bên vai. Mỗi bím tóc được thắt với một chiếc nơ nhỏ bằng vải nhung màu xanh biển, trông rất đáng yêu. Cô bé có tóc bím đó, Amada Thripp, cứ đứng yên gần như không nhúc nhích, quan sát tên khổng lồ hung tợn đang hùng hổ tiến lại gần; nét mặt của cô bé khi đó không khác chi nét mặt của một kẻ tử tù khi biết ngày tuyên án của mình đã đến.
Mụ Trunchbull đã đến được chỗ nạn nhân của mình; đứng sừng sững như một quả núi trước mặt cô bé. “Ta muốn mấy cái bím tóc bẩn thỉu kia biến mất trước buổi học đầu tiên sáng ngày mai!” mụ quát. “Cắt hết đi rồi quăng chúng vào thùng rác ngay, rõ chưa?”
Amanda, tê liệt cả người đi vì sợ hãi, lắp bắp nói: “M… m…mẹ em thích chúng ạ. Sáng nào mẹ cũng tết tóc cho em…”
“Mẹ của mi là một con mụ ngốc!” mụ Trunchbull rống lên. Mụ chỉ một ngón tay to bằng cả một cái xúc xích vào mặt cô bé rồi thét: “trông mi không khác gì một con chuột bẩn thỉu với hai cái đuôi thò ra từ trên đầu!”
“M… m…mẹ em nghĩ chúng rất.. rất dễ thương, thưa cô Trunchbull.” Amanda vừa run lẩy bẩy vừa lắp bắp nói.
“Ta không quan tâm mẹ mi nghĩ cái quái gì hết!” Mụ Trunchbull quát lên, và rồi mụ lao tới túm lấy hai bím tóc của Amanda bằng một tay, rồi nhấc bổng cô bé lên khỏi mặt đất. Rồi mụ ta bắt đầu quay cô bé càng lúc càng nhanh quanh đầu mình; Amanda gào thét ầm ĩ lên vì sợ hãi, còn mụ Trunchbull thì hét lên: “Ta sẽ cho mi biết thế nào là bím tóc, đồ nhãi con bẩn thỉu!”
“Hệt như ở Olympic.” Hortensia thì thầm. “Mụ ta đang dần tăng tốc kìa, y chang như lúc thi đấu ném tạ xích. Cá mười ăn một là mụ ta sẽ quăng cô bé đi đây.”
Và lúc này mụ Trunchbull bắt đầu hơi ngả người ra sau một chút, dồn trọng tâm vào mười đầu ngón chân, mụ bắt đầu quay tròn rất nhanh, rất nhanh, càng lúc càng nhanh, đến mức hình ảnh Amanda bắt đầu mờ dần đi vì tốc độ quay quá cao. Rồi bất ngờ, với một tiếng rống khủng khiếp, mụ Trunchbull thả hai bím tóc của Amanda ra, và cô bé phóng vọt qua hàng rào của sân trường, như một trái hỏa tiễn phóng thẳng lên bầu trời xanh.
“Ném tốt lắm, thưa ngài!” có tiếng ai đó kêu lên; và Matilda, từ nãy giờ vẫn hoàn toàn chăm chú theo dõi tất cả mọi việc, trông thấy thân hình Amanda vẽ ra một đường parabol tuyệt đẹp ngay phía trên sân trường. Cô bé lao thẳng xuống bãi cỏ, nảy lên và rơi xuống ba lần trước khi thực sự tiếp đất. Rồi, một cách thật thần kỳ, cô bé lại ngồi dậy được ngay. Có vẻ cô bé có hơi chóng mặt một chút, tất nhiên; nhưng chỉ một phút sau cô bé đã đứng dậy được và lại tập tễnh bước trở lại hướng sân trường.
Mụ Truchbull đang đứng giữa sân trường, phủi phủi bụi ở hai tay. “Không tệ.” mụ nói: “Không tệ lắm, nếu cân nhắc đến chuyện ta không tập luyện nghiêm túc đã được khá lâu. Không tệ chút nào.” Nói rồi mụ ta lại quảy quả bước đi.
“Mụ ta điên mất rồi.” Hortensia nói.
“Nhưng chẳng lẽ ba mẹ chị không nói gì sao?” Matilda thắc mắc.
“Thế ba mẹ nhóc liệu có dám nói gì không?” Cô nhóc lớp trên hỏi lại. “Ba mẹ tao thì chắc chắn là không rồi. Mụ ta đối xử với các vị phụ huynh không khác chi cách mụ dạy dỗ bọn trẻ, và tất cả bọn họ đều sợ mụ ta đến mất vía ra ấy chứ. Thôi, tao sẽ gặp lại hai đứa bây sau.” Nó nói rồi chậm rãi bỏ đi.
____________________________________
[2] Moses (trong tiếng Việt là Mô-sê hoặc Môi-se) là một nhân vật xuất hiện trong Kinh Thánh. Theo như trong Kinh Thánh, Moses là người đã dẫn dắt nhân dân Isarel thoát khỏi kiếp nô lệ dưới ách thống trị của người Ai Cập. Khi đoàn người dưới sự dẫn dắt của Moses bị truy đuổi đến bờ Biển Đỏ, Thiên Chúa đã khiến toàn bộ nước biển rẽ ra làm đôi, tạo thành một lối đi cho họ an toàn băng qua. Khi đạo quân Ai Cập đuổi đến nơi, Thiên Chúa lại làm nước lấp phủ đáy biển trở lại như cũ, khiến cho toàn bộ đạo quân với chiến xa, kỵ binh và bộ binh bị chôn vùi dưới đáy biển.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét