Thứ Hai, 27 tháng 2, 2012

NGÔI NHÀ NHỎ CỦA CÔ HONEY


Một lúc sau, cô Honey và Matilda rời bước khỏi cánh cổng trường tiểu học Crunchem Hall, và hai người họ cùng im lặng rảo bước qua ngôi làng buôn bán tấp nập High Street. Họ bước qua cửa hàng bán rau quả với những khung cửa sổ chất đầy cam và táo xanh, rồi cửa hàng bán thịt với những tảng thịt lớn đỏ tươi bày ra trên bàn và những chú vịt đã được vặt lông treo đầy trên những chiếc móc sắt, một cái ngân hàng nhỏ, rồi một cửa tiệm tạp hóa, rồi đến một tiệm bán đồ điện; và rồi ra đến phía bên kia của ngôi làng, nơi có một con đường nhỏ dẫn vào trong rừng, vắng bóng người và chỉ thưa thớt xuất hiện một vài chiếc ôtô. 

Và giờ khi chỉ còn có hai cô trò trên đường, Matilda đột nhiên trở nên đặc biệt hiếu động và hào hứng hẳn lên. Cứ như có một chiếc van an toàn vô hình nào đó bên trong cô bé vừa được bật mở, giải phóng ra những luồng năng lượng sống cực kỳ mạnh mẽ để chảy tràn khắp nơi trong cơ thể cô bé. Cô bé nhảy chân sáo từng bước nhỏ bên cạnh cô Honey, những ngón tay vung vẩy khắp bốn phía, ríu rít nói cười như một chú chim sẻ nhỏ. Cứ nào là cô Honey ơi, cô Honey à, cô ơi em cảm thấy mình có thể dịch chuyển được tất cả mọi thứ ấy, chứ không chỉ có làm đổ cốc và những vật nho nhỏ giống thế đâu… Em cảm thấy như mình có thể lật đổ được cả những thứ như bàn ghế nữa đó, cô Honey… Kể cả là có người đang ngồi trên ghế thì em nghĩ mình vẫn có thể hất tung được họ ra đấy, và cả những thứ lớn hơn nữa, lớn hơn rất nhiều nữa ý… Em chỉ cần tập trung sức mạnh vào mắt một lúc để có thể bắn nó ra, cái sức mạnh này ấy, để đẩy bất cứ thứ gì cũng được, miễn là em tập trung nhìn vào nó đủ lâu. Em phải nhìn cực kỳ chăm chú đó cô Honey, cực cực kỳ chăm chú luôn, và rồi em có thể cảm nhận thấy nó diễn ra ngay trong mắt mình, rồi mắt em nóng rẫy cả lên như bị đốt ấy, nhưng mà em không phiền tí chút nào đâu, và cô Honey à… 

“Bình tĩnh chút đi nào, em, bình tĩnh chút đi nào.” cô Honey nói. “Trước mắt chúng ta hãy từ từ khám phá nó từng bước một đã, đừng có nôn nóng như vậy.” 

“Nhưng cô không thấy là nó cực kỳ thú vị sao, cô Honey?” 

“Ồ có chứ.” cô Honey nói. “Nó thậm chí còn hơn cả thú vị ấy chứ. Nhưng từ giờ chúng ta phải cực kỳ cẩn thận trong từng bước khám phá năng lực của em đó, Matilda à.” 

“Sao lại phải cẩn thận hả cô?” 

“Bởi vì chúng ta đang nói đến một thứ sức mạnh bí ẩn, cô bé ạ, một thứ mà chúng ta chẳng biết chút gì về nó hết. Tuy vậy, cô cũng không nghĩ rằng nó là thứ gì đó xấu xa. Nó cũng có thể rất tốt. Nó thậm chí còn có thể là món quà mà Chúa đã ban tặng cho em nữa đó, Matilda. Nhưng dù nó có tốt lành hay không, chúng ta cứ biết là phải cực kỳ cẩn thận khi xử lý với nó đã, được chứ?” 

Đó là những lời khuyên rất chí lý từ một người lớn thông thái, nhưng Matilda đang quá phấn khích và hào hứng để có thể hiểu thấu nổi những lý lẽ đó. “Em không hiểu làm sao lại phải cần cẩn thận đến thế?” cô bé nói, vẫn nhảy chân sáo quanh cô Honey. 

“Thì cô đang cố giải thích cho em hiểu đây,” cô Honey đáp một cách kiên nhẫn, “chúng ta đang đối mặt với một thứ mà chúng ta còn chưa biết rõ về nó. Hơn nữa đấy lại là một chuyện không thể lý giải nổi. Chính xác thì phải nói là kỳ lạ. Đây là một chuyện rất kỳ lạ.” 

“Thế em cũng kỳ lạ sao ạ?” Matilda hỏi. 

“Rất có thể đó, Matilda.” cô Honey nói. “Nhưng cô nghĩ ngay lúc này em không cần phải băn khoăn xem mình là gì hay mình như thế nào cả. Việc mà cô nghĩ chúng ta nên làm bây giờ là khám phá dần dần, từng chút một năng lực kỳ lạ này của em; chỉ hai cô trò mình thôi, và luôn luôn phải đảm bảo trong mọi lúc là phải tuyệt đối cẩn thận.” 

“Vậy cô muốn em thử làm lại việc đó phải không ạ?” 

“Đấy là điều mà cô đang muốn gợi ý đó.” cô Honey nói. 

“Ô-kê thôi ạ!” Matilda vui vẻ đáp. 

“Chính cô đây,” cô Honey nói, “có lẽ còn ngạc nhiên trước những gì em đã làm hơn em rất nhiều, và cô đang cố để tìm ra một lời giải thích hợp lý cho tất cả những chuyện này đây.” 

“Như kiểu thế nào ạ?” Matilda hỏi. 

“Ví dụ như là liệu việc này có liên quan gì tới việc em là một đứa trẻ đặc biệt sớm phát triển hay không?” 

“Tức là sao ạ?” Matilda hỏi. 

“Một đứa trẻ sớm phát triển,” cô Honey nói, “là một đứa trẻ ngay từ nhỏ đã sớm bộc lộ tài năng và trí tuệ của mình vượt xa hơn so với những người khác. Em chính là một đứa trẻ sớm phát triển đến khó tin đó, Matilda.” 

“Thật thế hả cô? Em ấy ạ?” Matilda hỏi. 

“Tất nhiên rồi. Hẳn em cũng phải tự nhận ra điều đó chứ. Cứ xem khả năng đọc sách, rồi khả năng làm toán của em mà xem.” 

“Có lẽ cô nói đúng.” Matilda nói. 

Cô Honey thầm thán phục trước việc ở cô bé này không hề có một chút nào tự kiêu, hay chí ít là sự tự ý thức nào về trí thông minh tuyệt vời của mình. 

“Cô không thể không tự hỏi,” cô nói, “là thứ năng lực này của em, dịch chuyển đồ vật bằng ý nghĩ ấy; là nó tự dưng đến với em, hay là nó có liên quan gì đến năng lực trí não của em hay không? Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, cô nhắc lại là chúng ta sẽ phải làm mọi thứ một cách cực kỳ cẩn thận. Cô vẫn chưa quên cái vẻ lơ mơ kỳ lạ như là đang ở một thế giới khác của em lúc nãy, khi em vừa đẩy đổ cái cốc trong lớp đâu.” 

“Cô nghĩ dùng đến năng lực đó có thể sẽ gây hại cho em sao, cô Honey?” 

“Em có nói là nó làm em có một cảm giác kỳ kỳ, đúng không?” 

“Ồ, nhưng những cảm giác lúc sau đó thì tuyệt lắm cô ạ.” Matilda nói. “Trong một tích tắc, em đã phóng vút lên cao đến nỗi chạm được cả vào những vì sao trên trời, với một đôi cánh bạc trên lưng; em đã nói với cô rồi mà. Với cả cô ơi, em thấy như lần thứ hai làm dễ hơn lần thứ nhất nhiều, hơn rất nhiều ấy. Em nghĩ có lẽ nó cũng giống như mọi thứ khác thôi, càng luyện tập nhiều thì sẽ càng trở nên dễ dàng hơn trước.” 

Cô Honey vừa lắng nghe, vừa cố ý đi chầm chậm để cô bé không phải chạy quá nhanh để theo kịp mình. Và giờ đây khi ngôi làng buôn bán tấp nập và nhộn nhịp đã ở xa phía sau lưng họ, cảnh vật xung quanh con đường hai cô trò đang đi bắt đầu mở rộng dần ra, hết sức tươi đẹp và thanh bình. Đó là một buổi chiều mùa thu nhuộm ánh mặt trời vàng óng; từng chùm quả mâm xôi đen và những bông hoa nở rộ hiện ra nơi những hàng cây bụi mọc hai bên ven đường; và trên những cành táo gai, những trái táo đỏ chín thơm đang đợi chờ những chú chim tới hái khi mùa đông lạnh tràn tới. Những thân cây sồi, cây tiêu huyền, cây tần bì, và thỉnh thoảng cả những cây dẻ gỗ nâu nữa, vươn cao lên và phủ tán xuống con đường. Cô Honey, muốn đổi chủ đề của câu chuyện, kể cho Matilda tên của tất cả các loại cây này, và dạy cho cô bé phân biệt được từng loài cây bằng cách quan sát hình dạng của lá và của những lớp vỏ gỗ trên thân cây. Matilda chăm chú lắng nghe và cẩn thận ghi nhớ những kiến thức đó vào thật sâu trong trí óc mình. 

Hai người cuối cùng dừng bước ở một khoảng trống trên hàng rào cây phía bên trái con đường, nơi có một cánh cổng nhỏ khép hờ đóng bằng gỗ đỏ. “Lối này.” cô Honey nói, mở cánh cổng ra và dẫn Matilda đi qua, rồi lại khép cổng lại như cũ. Có một hàng cây dẻ mọc dài dọc theo lối đi, và cô bé có thể thấy rõ từng chùm hạt dẻ nâu đang lấp ló trên những tán lá xanh rậm rì. Những con sóc sẽ đến đây để hái chúng sớm thôi, cô Honey nói, và chúng sẽ cẩn thận cất giữ những hạt dẻ này để dự trữ cho những tháng mùa đông lạnh lẽo sắp tới. 

“Vậy là cô sống ở tận đây ư?” Matilda hỏi. 

“Ừ.” cô đáp, không nói gì thêm nữa. 

Matilda chưa bao giờ nghĩ đến việc chỗ ở của cô Honey sẽ trông như thế nào. Cô bé trước giờ vẫn chỉ coi cô như là một giáo viên thôi, tức một người không biết từ đâu xuất hiện, đến dạy học ở trường, rồi lại biến mất mãi cho đến tiết học lần sau. Liệu có đứa trẻ nào, Matilda thầm nghĩ, thắc mắc xem liệu thầy cô giáo của mình sẽ đi về đâu mỗi khi giờ học kết thúc? Liệu có ai tự hỏi mình xem liệu người giáo viên đó sống một mình, hay ở ngôi nhà của họ còn có một người mẹ, một người chị, hay một người chồng đang ngóng chờ họ trở về? “Cô sống một mình ạ, cô Honey?” đột nhiên cô bé hỏi. 

“Ừ.” cô giáo đáp, “Cô sống một mình.” 

Đoạn đường chỗ họ đang đi qua giờ đóng đầy những mảng bùn đang khô lại dưới ánh mặt trời. Phải đặc biệt chú ý tới chỗ đặt bước chân, nếu không muốn bị vấp và té dập mặt. Còn có vài chú chim đang bay lượn qua lại bên những cành dẻ nữa, nhưng tất cả mọi thứ xung quanh cũng chỉ có thế, không hơn. 

“Đây chỉ là một căn nhà nhỏ của người làm nông thôi.” cô Honey nói. “Em đừng kỳ vọng gì nhiều quá nhé. Chúng ta đã gần đến nơi rồi đấy.” 

Họ tới gần một cánh cổng nhỏ sơn màu xanh lá cây phía bên phải; gần như hoàn toàn bị che khuất bởi những nhành dẻ um tùm vươn ra từ phía bên phải vệ đường. Cô Honey đặt tay lên trên cánh cổng gỗ nhỏ và nói: “Đây rồi, đến rồi đó. Đây là nơi cô ở.” 

Matilda thấy trước mặt mình là một con đường đất, dẫn vào một ngôi nhà nhỏ xây bằng gạch. Ngôi nhà nhỏ đến nỗi trông nó giống một ngôi nhà dành cho búp bê hơn là cho người ở. Những viên gạch xây nhà đều đã rất cũ, giòn và ngả sang một thứ màu đỏ thẫm gần như đen. Nó có một cái mái nhà lợp ngói màu xám và một cái ống khói nho nhỏ; và có hai cái cửa sổ nho nhỏ phía trước ngôi nhà. Mỗi khung cửa không hề lớn hơn một tờ báo gấp làm đôi, và rõ ràng là ngôi nhà này chỉ có duy nhất một tầng. Ở hai bên ngôi nhà là những bãi trống lớn mọc đầy rẫy tầm ma, những bụi cây mâm xôi và đủ các loại cỏ dại khác. Một cây sồi to khổng lồ mọc ngay gần đó phủ bóng lên ngôi nhà. Những cành gỗ to lớn và nặng nề của nó vươn ra xung quanh như thể đang âu yếm ôm lấy ngôi nhà nhỏ xíu bên dưới, cũng như che chắn nó khỏi phần còn lại của thế giới. 

Cô Honey, đặt một tay lên trên cánh cổng nhưng vẫn chưa mở nó ra, quay về phía Matilda và nói: “Có một nhà thơ tên là Dylan Thomas từng viết những câu thơ như thế này, mà cứ mỗi lần bước ngang qua đây là cô lại liên tưởng tới chúng.” 

Và rồi, với một chất giọng thật ngọt ngào và dịu dàng, cô Honey bắt đầu đọc lên những câu thơ: 

“Đừng bao giờ đến, cô bé, những miền đất xa xăm, 
Nơi có câu chuyện cổ; nơi phép màu say ngủ, 
Em sẽ sợ hãi khi tin rằng dưới lốt cừu trắng kia là loài sói dữ, 
Bước chân hạnh phúc và vô lo; tiếng ca em hồn nhiên và trong trẻo 
Những tháng ngày đẫm sương, 
Một chùm lá buông mình rơi khỏi một cành gỗ nhỏ 
Hãy giữ mãi trái tim em trong ngôi nhà gỗ đỏ, màu đỏ cánh hoa nhung.” [1]

Một khoảnh khắc im lặng phủ lấy khoảng không sau khi những câu thơ kết thúc; và Matilda, người chưa bao giờ được nghe những câu thơ lãng mạn đến tuyệt diệu như thế, hoàn toàn bị rung động trước những âm điệu huyền diệu đầy mê hoặc của lời thơ. “Nghe giống như một khúc nhạc vậy,” cô bé thì thầm. 

“Nó chính là âm nhạc,” cô Honey nói. Và rồi, như có chút xấu hổ vì vừa mới tiết lộ một phần bí mật của cuộc sống của mình, cô nhanh nhẹn đẩy cánh cổng ra và vội vã bước vào. Matilda vẫn đứng nguyên tại chỗ. Cô bé bắt đầu thấy hơi sờ sợ nơi này. Nó quá tách biệt, quá huyền ảo, gần như không có thực và gần như không thuộc về thế giới này. Khung cảnh và ngôi nhà nhỏ kia trông hệt như những bức vẽ minh họa từ cuốn truyện cổ Grim hay từ những câu chuyện của An-đéc-xen. Đây là ngôi nhà nơi người tiều phu nghèo sống với Hansel và Gretel; là nơi bà ngoại của Cô bé quàng khăn đỏ sống; là ngôi nhà của Bảy chú lùn và của tất cả những nhân vật quen thuộc khác… tất cả cứ như vừa được kéo thẳng ra từ một câu chuyện cổ tích vậy. 

“Đi thôi nào em!” Cô Honey gọi, và Matilda vội vã bước theo cô. 

Cánh cửa trước được phủ một lớp sơn màu lá mạ đã cũ, nhiều chỗ đã bong cả ra, và chẳng hề có một lỗ khóa nào cả. Cánh cửa chỉ đơn giản được gài lại bằng một thanh chốt nhỏ bằng gỗ thôi. Cô Honey nhẹ nhàng nhấc thanh chốt lên, mở cửa và bước vào trong. Mặc dù chẳng lấy gì làm cao lắm, nhưng cô Honey vẫn phải khom mình xuống một chút mới có thể bước qua được khung cửa nhỏ xíu của ngôi nhà. Matilda bước liền theo sau cô. Cô bé bước vào căn nhà mà như cảm thấy mình vừa chui vào một cái đường hầm, hẹp và tối thui. 

“Em cũng vào bếp và giúp cô pha trà nhé,” cô Honey nói, và dẫn lối cho cô bé về hướng nhà bếp - nếu bạn có thể gọi nó là một cái nhà bếp. Nó chỉ rộng hơn một cái tủ quần áo loại lớn một chút, với một cái cửa sổ phía sau, bên dưới là một chiếc bồn rửa nhỏ, nhưng trên bồn rửa lại không có vòi nước. Dựa vào bức tường bên cạnh là một cái kệ, có lẽ dùng để chuẩn bị thức ăn, và phía trên cái kệ là một cái tủ chén bé xíu. Trên cái kệ đặt một cái bếp Primus[2], một cái chảo rán, và một chai sữa còn đầy khoảng một phần hai. 

“Em hãy đi lấy nước trong khi cô nhóm bếp nhé,” cô Honey nói. “Giếng nước ở đằng sau nhà đó. Có cái tời dây ở sẵn trong đó rồi, em chỉ cần móc cái xô vào đầu sợi dây rồi hạ nó xuống thôi; mà cẩn thận kẻo ngã đấy nhé.” Matilda liền xách cái xô nhỏ ra khu vườn phía sau nhà. Cái giếng có một khung mái nho nhỏ đóng bằng gỗ, phía trên còn gắn một cái chong chóng gió. Một sợi dây tời cuốn vào trục ròng rọc đang lơ lửng đung đưa phía trên một cái miệng giếng đen sâu hun hút không thấy đáy. Matilda kéo sợi tời lên và buộc cái quai xách của cái xô vào đó. Rồi cô bé hạ dần chiếc xô xuống cho đến khi nghe thấy một tiếng “Tõm!” và sợi dây căng hẳn ra. Cô bé lại kéo nó trở lên, và giờ cô bé đã có một cái xô đầy ăm ắp nước trong vắt. 

“Chừng này đủ chưa hả cô?” cô bé hỏi khi mang nó vào tới nhà bếp. 

“Cũng được rồi,” cô Honey nói. “Cô đoán là em chưa làm việc này bao giờ, phải không?” 

“Vâng,” cô bé đáp. “Cũng thích thích cô ạ. Mà thế này thì mỗi lần lấy nước vào bồn tắm thì phải lấy bao nhiêu lần mới đủ hả cô?” 

“Ồ, cô không có tắm bồn,” cô Honey nói. “Cô tắm đứng. Cô lấy một xô đầy nước và đặt nó trên bếp cho nước nóng lên, rồi cô cởi bỏ quần áo và xối nước lên mình để tắm thôi.” 

“Thật ấy ạ?” Matilda kinh ngạc hỏi. 

“Tất nhiên rồi,” cô Honey đáp. “Chỉ không lâu trước đây, mọi người nghèo ở Anh đều tắm kiểu đó cả. Và họ thậm chí còn không có cả bếp Primus như cô đâu. Họ phải đun nước trong lò sưởi đấy.” 

“Cô nghèo lắm sao, cô Honey?” 

“Ừ,” cô giáo đáp. “Rất nghèo. Mà đây cũng là một cái bếp tốt đấy chứ, phải không?” Cái bếp Primus đang reo lên những ngọn lửa xanh mạnh mẽ, và chẳng mấy chốc chỗ nước trong cái chảo rán đã bắt đầu sôi ùng ục. Cô Honey lấy xuống một chiếc ấm trà từ trên tủ chén và cho một ít lá trà khô vào đó. Cô cũng đồng thời lấy ra thêm một mẩu bánh mì nâu nữa. Cô cắt ra vài lát bánh nhỏ rồi kéo một cái hộp nhựa đựng bơ thực vật ra và phết lên mỗi lát bánh một chút bơ. 

Bơ thực vật, Matilda thầm nghĩ. Cô giáo đúng là thực sự rất nghèo. 

Cô Honey dọn ra một cái khay và bày lên trên đó hai cái tách, cái ấm trà, chai sữa còn một phần hai, và một cái đĩa nhỏ đựng hai miếng bánh mì. “Cô e là mình không có đường,” cô giáo nói. “Cô không có ăn đến chúng.” 

“Dạ không sao đâu ạ,” Matilda đáp. Cô bé đủ thông minh để nhận ra mức độ nhạy cảm của tình huống lúc này, và cô bé hiểu mình phải rất cẩn trọng mỗi khi nói gì đó để tránh làm bẽ mặt gia chủ. 

“Rồi, giờ thì chúng ta sang phòng khách để dùng trà nhé,” cô Honey nói, rồi nhấc khay trà lên và dẫn Matilda ra khỏi nhà bếp, theo cái đường hầm tối thui dẫn ra căn phòng ở chính giữa nhà. Matilda bước theo cô, nhưng vừa mới đến cái khoảnh sàn bé tí trước cửa chính được gọi là “phòng khách” này, cô bé lập tức đứng khựng lại và kinh ngạc quan sát xung quanh. Căn phòng có hình vuông, bé xíu và kín bưng như một gian nhà ngục. Nguồn sáng duy nhất của căn phòng là thứ ánh sáng mặt trời yếu ớt lọt qua khung cửa sổ nhỏ xíu phía trước nhà, hoàn toàn không có rèm cửa. Những thứ có trong căn phòng này chỉ gồm hai cái hộp gỗ úp ngược xuống dùng để làm ghế, và một cái hộp thứ ba lớn hơn đặt giữa chúng để làm bàn. Tất cả chỉ có thế. Không có tranh treo tường; cũng không có thảm trải sàn, chỉ có mặt sàn gỗ xù xì và cứng ngắc, đầy rẫy những khe hở mà đủ thứ bụi bặm và rác rến nhỏ đã nhồi vô cứng ngắc. Trần nhà thấp đến nỗi chỉ cần nhảy lên một cái là Matilda đã có thể chạm tới. Tường có màu trắng, nhưng không có vẻ là thứ màu có được do quét sơn. Matilda xoa xoa bàn tay vào một bên tường và những lớp bụi trắng bong ra, bám đầy lên da tay cô bé. Đấy là nước vôi, thứ màu quét rẻ tiền vẫn thường chỉ được dùng để sơn phết những cái chuồng ngựa hay chuồng gà. 

Matilda kinh hãi ngó xung quanh. Đây thực sự là nơi mà một cô giáo luôn chỉnh tề, luôn gọn gàng và sạch sẽ như cô Honey ở ư? Nơi mà cô giáo trở về sau mỗi ngày làm việc chỉ có thế này thôi ư? Thật không thể tin được. Tại sao lại thế chứ? Chắc chắn phải có một bí ẩn gì đó ở đây, chắc chắn thế. 

Cô Honey đặt chiếc khay xuống một cái hộp gỗ. “Ngồi xuống đi em,” cô nói. “Giờ cô trò mình cùng dùng vài tách trà nóng nhé. Em ăn miếng bánh đi. Cả hai miếng đều là của em hết đó. Cô chẳng bao giờ ăn gì ở nhà cả đâu. Cô luôn dùng một bữa thật no ở trường, và chừng đó là đủ cho cô đến tận sáng hôm sau rồi.” 

Matilda cẩn thận ngồi xuống một chiếc hộp gỗ, và vì lý do lịch sự nhiều hơn là vì đói, cô bé với tay lấy một lát bánh mì phết bơ thực vật và cắn một miếng nhỏ. Nếu là ở nhà mình thì cô bé đã không ngần ngại chén sạch một ổ bánh mì nướng phết bơ và đường kèm với mứt dâu tây, và có lẽ là một đĩa bánh ngọt để tráng miệng nữa. Thế nhưng không hiểu sao, cô bé lại thấy thế này thú vị hơn. Có một bí ẩn nơi ngôi nhà nhỏ xíu này, một bí ẩn rất lớn, không phải nghi ngờ gì hết, và Matilda đang rất nóng lòng được khám phá xem bí ẩn đó là gì đây. 

Cô Honey rót trà và cho thêm một chút sữa vào hai cái tách. Cô chẳng có vẻ gì ngại ngần khi ngồi trên một cái thùng gỗ trong một căn phòng trống trơn, dùng trà trong một chiếc tách được cô đặt trên đầu gối của mình. 

“Em biết không,” cô nói, “cô đã nghĩ rất nhiều về việc em đã làm với cái cốc lúc tiết học chiều nay. Đó là một năng lực tuyệt diệu đã được thánh thần trao cho em đó, em biết chứ?” 

“Dạ có, thưa cô Honey,” Matilda nói, đưa lát bánh lên môi và cắn thêm một miếng nhỏ nữa. 

“Theo như cô biết,” cô giáo nói tiếp, “chưa từng có một ai tự cổ chí kim có thể khiến một thứ gì đó chuyển động mà không chạm vào hay thổi nó hay dùng đến sự giúp đỡ từ bên ngoài cả; trừ em.” 

Matilda gật đầu, nhưng không nói gì hết. 

“Điều thú vị nhất,” cô Honey nói, “sẽ là tìm hiểu xem giới hạn thực sự của năng lực này của em là đến đâu. Ồ, và cô biết là em tin rằng mình có thể dịch chuyển được mọi thứ, nhưng cô hơi có chút nghi ngờ về điều đó đấy.” 

“Vậy em sẽ thử với một thứ gì đó đặc biệt lớn.” Matilda nói. 

“Và còn khoảng cách thì sao?” cô Honey hỏi. “Liệu em có cần phải ở gần một vật nào đó để có thể dịch chuyển được nó không?” 

“Em cũng không biết nữa,” Matilda nói. “Nhưng em sẽ thử tìm hiểu xem sao.” 

____________________________________ 

[1] Đoạn thơ trên chỉ là phỏng dịch. Xin được thứ lỗi, vì hạn chế khả năng nên người dịch không thể cung cấp được cho bạn đọc một bản dịch sát nghĩa hơn. 

Đoạn thơ gốc xuất hiện trong nguyên tác, trích từ khổ thơ đầu của bài thơ “In Country Sleep” của nhà thơ nổi tiếng người Anh Dylan Thomas, như sau: 

Never and never, my girl riding far and near 
In the land of the hearthstone tales, and spelled asleep, 
Fear or believe that the wolf in a sheepwhite hood 
Loping and bleating roughly and blithely shall leap, 
My dear, my dear, 
Out of a lair in the flocked leaves in the dew dipped year 
To eat your heart in the house in the rosy wood. 

[2] Bếp Primus là một loại bếp nhỏ dùng chủ yếu cho những buổi đi cắm trại. Người ta cho cồn khô hoặc paraphin vào, nhóm lửa ở phía trên rồi dùng một dụng cụ để bơm khí vào cho lửa cháy mạnh hơn. (Chú thích của tác giả).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét