Thứ Ba, 14 tháng 2, 2012

BRUCE BOGTROTTER VÀ CHIẾC BÁNH SÔ CÔ LA


“Sao mụ ấy có thể ngang nhiên làm những chuyện như thế mà vẫn không bị làm sao nhỉ?” Lavender nói với Matilda. “Chắc chắn mọi người khi về nhà sẽ mách với ba mẹ ngay chứ. Nếu tớ mà về kể cho ba mình nghe là mình bị cô Hiệu trưởng túm lấy tóc rồi lẳng một phát cho bay qua hàng rào, đảm bảo ổng sẽ làm om sòm lên cho coi.” 

“Không, ba cậu sẽ không tức lên chút nào đâu.” Matilda nói. “Đơn giản là vì bác ấy sẽ không tin cậu.” 

“Tất nhiên là ba tớ sẽ tin tớ chứ!” 

“Không, bác ấy sẽ không tin đâu.” Matilda nói. “Vì một lý do rất hiển nhiên: Cái câu chuyện đó nghe nực cười đến mức không ai lại đi tin đó là chuyện thực. Và đấy chính là bí mật cho việc luôn luôn thoát được tội của mụ Trunchbull.” 

“Bí mật gì cơ?” Lavender hỏi. 

Matilda nói: “Không bao giờ làm cái gì nửa vời nếu bạn muốn thoát tội sau này. Phải làm cho tới nơi tới chốn. Làm cho thật điên rồ lên, đến nỗi nó trở thành chuyện không thể nào tin được. Không có vị phụ huynh nào sẽ tin cái câu chuyện bím tóc vừa rồi, cả triệu năm nữa cũng không. Ít nhất thì ba mẹ tớ cũng chắc chắn sẽ không tin. Thay vào đó, họ sẽ mắng tớ là đứa nhãi con mà đã biết dựng chuyện gian trá.” 

“Nếu vậy thì,” Lavender nói: “có khi mẹ Amanda sẽ không chịu cắt hai cái bím tóc của bạn ấy đi đâu.” 

“Không đâu, đảm bảo đấy.” Matilda trả lời. “Amanda sẽ phải tự cắt lấy hai cái bím tóc của mình. Cậu cứ đợi mà xem có đúng không.” 

“Cậu có nghĩ bà ấy đã phát điên rồi không?” Lavender hỏi. 

“Ai cơ?” 

“Hiệu trưởng Truchbull ấy.” 

“Không, tớ không nghĩ là bà ấy bị điên.” Matilda đáp. “Nhưng bà ta vẫn là kẻ rất nguy hiểm. Học ở cái trường này cứ như ở cùng một chuồng với rắn hổ mang. Phải cực kỳ mau lẹ mới mong có thể sống sót.” 

Ngay ngày hôm sau, tụi trẻ lại được thấy thêm một điều nữa minh chứng cho sự nguy hiểm của hiệu trưởng Trunchbull. Lúc cả trường đang dùng bữa trưa, một thông báo được phát ra trên loa, yêu cầu tất cả học sinh phải có mặt và ngồi ngăn ngắn trong hội trường ngay khi bữa trưa kết thúc. 

Ngay khi tất cả học sinh toàn trường, hơn hai trăm năm mươi người hay cũng khoang khoảng đấy, đã yên vị trong hội trường; hiệu trưởng Trunchbull xuất hiện, nện từng bước rầm rầm lên sân khấu. Không có giáo viên nào khác đi cùng với bà ta cả. Trong tay phải của bả là một cây roi quất ngựa[1]. Bà ta lên đứng ngay trên chính giữa sân khấu, với đôi chân mở rộng và cây roi quất ngựa lăm lăm trên tay; quét mắt xuống cả một biển học sinh đang ngước lên nhìn mình.  

“Không biết có chuyện gì vậy nhỉ?” Lavender thì thầm hỏi. 

“Tớ chịu.” Matilda khẽ đáp lại. 

Cả toàn trường cùng nín thở chờ đợi xem chuyện gì sắp sửa sẽ xảy ra tiếp theo. 

“Bruce Bogtrotter!” đột nhiên mụ Trunchbull quát lên. “Bruce Bogtrotter đâu?” 

Một cánh tay giơ lên giữa cả biển học sinh. 

“Đi lên đây ngay!” hiệu trưởng Trunchbull quát. “Nhanh lên!” 

Một cậu nhóc khoảng tầm mười một, mười hai tuổi, béo ú và tròn ùng ục, đứng dậy và lạch bạch bước tới trước, trèo lên sân khấu. 

“Lại góc kia đứng!” Mụ Trunchbull ra lệnh, chỉ tay về phía một góc của sân khấu. Cậu bé đó đứng sang một bên. Trông cậu nhóc có vẻ căng thẳng. Nó biết rất rõ rằng nó bị gọi lên đây không phải là để nhận một giải thưởng hay bất cứ cái gì tốt đẹp hết. Nó ngẩng lên theo dõi hiệu trưởng Trunchbull một cách hết sức thận trọng và cảnh giác; và cứ từng bước từng bước nhỏ một, cậu bé lại bước lùi ra xa dần khỏi bà ta, hệt như một chú chuột đang cố lùi xa ra khỏi con mèo hung ác đang chăm chú theo dõi nó từ phía bên kia căn phòng. Khuôn mặt béo tròn núc ních của nó giờ chuyển sang một màu xám ngoét vì sợ hãi; còn đôi vớ đang đi thì tụt cả xuống dưới mắt cá chân. 

“Cái thằng đần độn mà tụi bây đang nhìn ở đây,” mụ nói, chỉ thẳng cây roi vào mặt Bruce hệt như người ta chĩa mũi kiếm vào mặt kẻ thù: “tên nhãi con khốn kiếp, béo thộn và ngu ngốc này, không gì khác hơn chính là một tên tội phạm đáng ghê tởm! Một thằng xã hội đen, một tên Mafia chính hiệu!” 

“Ai, em ấy ạ?” Bruce Bogtrotter thốt lên, trông thật sự sửng sốt và bối rối. 

“Một thằng ăn cắp!” mụ Trunchbull thét lên. “Quân đầu trộm đuôi cướp! Quân tội phạm!” 

“Cô nói gì em không hiểu?” cậu nhóc nói. 

“Mi còn dám chối hả, quân rác rưởi bẩn thỉu kia! Mi dám khẳng định là mình vô tội sao?” 

“Em chẳng hiểu cô đang nói về cái gì nữa!?” cậu bé trả lời, trông lúng túng hơn bao giờ hết. 

“Ta sẽ nói cho mi biết ta đang nói về cái gì, đồ nhãi con dơ bẩn!” mụ Trunchbull thét lên. “Sáng hôm qua, đang lúc giờ ra chơi, chính mi đả lỉnh vào nhà bếp và cắt trộm một miếng từ đĩa bánh sô cô la đặt trên cái khay trà của ta. Cái khay đó đã được đầu bếp chuẩn bị riêng cho ta; là bữa ăn nhẹ của ta! Cái bánh đó là của riêng một mình ta, không phải thứ cho một thằng nhãi ranh như mi! Bộ mi nghĩ ta sẽ động dao động nĩa để ăn chung thứ thức ăn dơ bẩn mà tụi bây vẫn ăn vào bữa trưa hay sao? Cái bánh đó được làm ra từ bơ thật và kem thật! Và mi, quân trộm cắp đang đứng kia, đã dám ngang nhiên lỉnh vào bếp và chén mất chiếc bánh đó của ta!” 

“Em chưa bao giờ làm thế cả!” cậu bé kêu lên. Sắc mặt nó bây giờ đã chuyển từ xám ngoét sang một màu trắng bệch. 

“Đừng có hòng nói dối ta, Bogtrotter!” mụ Trunchbull quát lên. “Bà nấu bếp đã nhìn thấy mi! Hơn thế nữa, bà ta đã bắt được quả tang lúc mi đang ăn vụng chiếc bánh!” 

Nói rồi mụ Trunchbull dừng lại một chút để đưa tay lên chùi mép. 

Khi mở miệng nói trở lại, giọng bà ta đột nhiên trở nên mềm mại, nhẹ nhàng và thân thiện hơn trước rất nhiều. Mụ ta nghiêng người lại gần thằng bé, mỉm cười và hỏi: “Trò thích chiếc bánh sô cô la đặc biệt đó của ta chứ, Bogtrotter? Có phải nó ngọt lịm và vô cùng thơm ngon hay không?” 

“Rất tuyệt ạ.” Cậu bé lẩm bẩm. Câu nói đó tự động phát ra trước khi cậu nhóc kịp suy nghĩ để dừng nó lại. 

“Trò nói đúng lắm.” mụ Trunchbull nói. “Nó thực sự rất ngon. Bởi vậy ta nghĩ trò nên chúc mừng bà nấu bếp. Một quý ông thực thụ sau khi dùng một bữa ăn ngon lành xong, bao giờ cũng phải gửi lời khen ngợi của mình tới người đầu bếp. Trò chắc không biết điều đó, phải không Bogtrotter? Nhưng ta chắc lũ tội phạm xã hội đen như trò đâu cần phải để tâm đến lề thói lịch sự, nhỉ!?” 

Cậu nhóc chỉ im lặng không đáp. 

“Đầu bếp đâu?” mụ Trunchbull quát lên, quay mặt về phía cửa. “Lại đây, bà nấu bếp! Trò Bogtrotter đây muốn nói cho bà biết chiếc bánh sô cô la đó của bà ngon đến cỡ nào này!” 

Bà nấu bếp, một người phụ nữ lớn tuổi, cao lêu khêu và run rẩy hết sức; trông nhăn nheo và ốm yếu tới mức tưởng như toàn bộ nước trong người bả đã bị đun nóng cho bay hơi hết trong lò nướng rồi, mặc một cái tạp dề trắng đã bị ố đủ loại vết bẩn, đang chậm rãi bước lại gần sân khấu. Việc bà đầu bếp xuất hiện hẳn cũng đã ở sẵn trong dự định của hiệu trưởng Trunchbull từ trước. 

“Giờ thì, Bogtrotter,” mụ Trunchbull nhấn mạnh từng chữ bằng một giọng nói rất to và trầm. “Hãy nói với bà nấu bếp cảm nghĩ của trò về chiếc bánh đó.” 

“Ngon ạ.” cậu bé lẩm bẩm. Trông cậu nhóc rõ ràng là đang bắt đầu băn khoăn không hiểu chuyện này sẽ dẫn đến đâu đây. Cậu bé chỉ biết rõ một điều duy nhất, đấy là luật pháp nghiêm cấm việc hiệu trưởng Trunchbull được đánh cậu bằng cây roi quất ngựa mà từ nãy đến đến giờ mụ cứ lăm lăm trên tay kia. Điều đó giúp cậu thấy nhẹ nhõm hơn được một chút, nhưng cũng chưa hẳn đã hết lo, vì mụ Trunchbull là một kẻ không thể nói trước được sẽ làm gì. Chẳng có ai có thể biết được mụ sẽ làm gì tiếp theo. 

“Đó, thấy chưa đầu bếp.” mụ Trunchbull kêu lên. “Bogtrotter thích cái bánh của bà đó. Liệu bà có còn thêm bánh nữa để cho trò ấy được thưởng thức tiếp không?” 

“Có đấy, có đấy.” bà nấu bếp nói. Có vẻ gì đó như kiểu bà ta đã học thuộc lòng mấy lời thoại này từ trước rồi vậy. 

“Vậy mau mang nó ra đây. Và mang theo cả một con dao để cắt bánh nữa nhé.” 

Bà nấu bếp biến mất, nhưng rồi trở lại ngay sau đó, oằn mình nâng một chiếc bánh sô cô la tròn to bự bành tổ chảng, đặt trên một cái khay đựng thức ăn khổng lồ. Chiếc bánh phải có đường kính đến gần năm chục phân[2], được phủ kín bởi sô cô la màu nâu đang chảy ra từ khắp nơi trên mặt bánh. “Đặt nó lên bàn đi.” mụ Trunchbull nói.   

Ở giữa sân khấu khi đó đã được đặt sẵn một chiếc bàn gỗ nhỏ, cùng một chiếc ghế ở bên cạnh. Bà nấu bếp cẩn thận đặt chiếc bánh đó lên trên mặt bàn. “Ngồi xuống đi, Bogtrotter.” mụ Trunchbull ra lệnh. “Ngồi xuống chỗ đó.” 

Bruce Bogtrotter thận trọng tiến gần tới bên chiếc bàn, kéo ghế ra và ngồi xuống. Nó nhìn chăm chăm vào cái bánh khổng lồ đang được đặt ngay trước mặt mình. 

“Rồi, được rồi đó, Bogtrotter.” mụ Trunchbull nói, và một lần nữa giọng bà ta lại trở nên mềm mại, nhỏ nhẹ, có phần hơi dịu dàng nữa. “Tất cả chiếc bánh đó là của trò đó, từng miếng một. Bởi vì trò đã chén rất ngon lành miếng bánh hôm qua, ta đã lệnh cho đầu bếp làm riêng cho trò hẳn một chiếc bánh cỡ đại bự để trò được ăn cho sướng miệng đó.” 

“Vậy ạ, cảm ơn cô.” Bruce Bogtrotter bối rối đáp. 

“Cảm ơn bà nấu bếp ấy, đừng có cảm ơn ta.” mụ Trunchbull nói. 

“Cảm ơn bà ạ.” cậu bé nói với người đầu bếp. 

Bà nấu bếp chỉ đứng đó, yên lặng, không hé răng ra lấy nửa câu; như thể miệng bả đã bị gắn xi lại rồi vậy. 

“Bắt đầu đi chứ.” hiệu trưởng Trunchbull nói. “Mau cắt ra một miếng bánh thật lớn và ăn thử đi.” 

“Dạ? Bây giờ luôn ấy ạ?” cậu bé hỏi lại. Cậu biết hẳn trong này phải có một cái bẫy nào đây, nhưng cậu không thể biết chắc được cái bẫy đó là gì. “Em có thể mang nó về nhà để ăn sau được không ạ?” nó hỏi. 

“Nhưng thế thì thật là bất lịch sự.” mụ Trunchbull nói, miệng nở một nụ cười xảo quyệt. “Trò phải ăn ngay tại đây để cho bà nấu bếp thấy sự biết ơn của trò, sau bao nhiêu công sức mà bà ấy đã bỏ ra để làm ra chiếc bánh đó cho trò được ăn thỏa thích chứ.” 

Bruce Bogtrotter vẫn không chịu chuyển động gì hết. 

“Thế nào, bắt đầu đi chứ!?” mụ Trunchbull nói. “Cắt lấy một miếng và ăn thử đi. Chúng ta không có cả ngày để đợi đâu.” 

Cậu nhóc đang cầm con dao lên và chuẩn bị cắt bánh thì bỗng nhiên dừng lại. Nó nhìn chăm chăm vào chiếc bánh. Rồi nó lại ngẩng lên nhìn mụ Trunchbull, rồi đến bà đầu bếp với cái miệng vẫn kín chặt không chịu nói câu nào. Toàn bộ lũ trẻ đang ngồi dưới hội trường đều nín thở chờ đợi một điều gì đó đang sắp sửa diễn ra. Chúng đều có một cảm giác chắc chắn là thứ gì đó sẽ sắp sửa diễn ra ngay thôi. Mụ Trunchbull không phải là loại người có thể dễ dàng cho không ai cả một ổ bánh to bự tổ chảng chỉ đơn thuần vì lòng tốt. Nhiều đứa đoán già đoán non là hẳn chiếc bánh đó đã bị nhồi ở bên trong toàn tiêu hột, dầu thầu dầu hoặc thứ gì đó có vị vô cùng kinh khủng, đủ để khiến thằng bé nuốt vào xong là sẽ phải nhập viện ngay. Thậm chí nó có thể đã bị tẩm thuốc chuột và thằng nhóc sẽ sùi bọt mép chết đứ đừ chỉ trong vòng không đến một phút. Hoặc có khi giấu bên trong chiếc bánh là một quả bom, hoặc nó là một chiếc bánh bị nhồi đầy thuốc pháo, mà ngay khi bị cắt ra là nó sẽ nổ tung ngay lập tức, mang theo luôn cả tính mạng của Bruce Bogtrotter. Tất cả toàn bộ lũ học sinh đều dám chắc mụ Truchbull có thể làm bất cứ việc gì trong những việc trên mà không một chút chần chừ hay sợ sệt gì. 

“Em không muốn ăn nó.” cuối cùng thằng bé nói. 

“Mau ăn đi, đồ nhãi con!” hiệu trưởng Trunchbull quát. “Mi đang xúc phạm bà nấu bếp đấy!” 

Không còn cách nào khác, Bruce Bogtrotter đành phải cắt lấy một miếng bánh mỏng, một cách rất cẩn thận và chậm rãi, như để đề phòng có thứ gì sẽ bật ra và làm hại mình. Rồi nó từ từ kéo miếng bánh ra. Rồi nó hạ con dao xuống và từ từ đưa miếng bánh đó lên miệng. 

“Ngon đấy chứ, phải không?” mụ Trunchbull hỏi. 

“Ngon lắm ạ.” thằng bé nói, tiếp tục nhai rồi nuốt ực miếng bánh xuống bụng. Chỉ trong một chốc nó đã chén sạch cả lát bánh vừa mới cắt. 

“Ăn thêm một lát bánh nữa đi.” mụ Trunchbull nói. 

“Em đủ rồi ạ, cám ơn cô.” cậu bé lí nhí đáp. 

“Ta bảo mi ăn thêm một lát bánh nữa đi!” mụ Trunchbull nói, giọng mụ nghe lại thêm đáng sợ hơn trước. “Bảo gì thì làm nấy đi! Cắt thêm một lát bánh nữa và ăn tiếp đi!” 

“Nhưng em không muốn ăn thêm nữa.” cậu bé nói. 

Bất thình lình mụ Trunchbull thét lên: “Ăn!” mụ quát, vút mạnh cây roi xuống mặt bàn. “Ta đã nói ăn là phải ăn! Mi muốn ăn bánh cơ mà, mi đã trộm bánh cơ mà! Giờ thì mi có bánh rồi đấy! Ăn ngay! Mi sẽ không được rời khỏi cái sân khấu này, và cũng không có đứa nào được rời khỏi cái hội trường này chừng nào mi chưa nuốt hết cả cái bánh này! Mi đã nghe thủng chưa, Bogtrotter!?” 

Thằng bé ngẩng lên nhìn mụ Trunchbull. Rồi nó lại quay lại và ngó xuống chiếc bánh sô cô la khổng lồ kia. 

“Ăn! Ăn! Ăn ngay cho ta!” mụ Trunchbull thét lên. 

Rất chậm rãi, cậu bé cắt thêm cho mình một miếng bánh nữa rồi lại bắt đầu ăn. 

Matilda chăm chú quan sát. “Cậu nghĩ liệu anh ấy có ăn được hết nó không?” cô bé thì thầm với Lavender. 

“Không.” Lavender thì thào lại trả lời. “Đấy là chuyện không thể. Chỉ cần ăn hết một nửa cái bánh đấy thôi cũng đủ làm người ta phát ốm lên rồi.” 

Bruce Bogtrotter vẫn tiếp tục ăn. Khi đã nuốt xong miếng bánh thứ hai, nó ngẩng lên nhìn mụ Trunchbull, lưỡng lự. 

“Ăn!” mụ thét lên. “Những thằng trộm tham lam thích ăn vụng bánh thì sẽ được ăn bánh! Ăn nhanh lên thằng kia! Ăn nhanh lên! Chúng ta không muốn phải ở lại đây cả ngày đâu! Đừng có mà dừng lại như thế! Mi mà còn dừng lại một lần nữa trước khi nuốt hết cả cái bánh, ta sẽ cho mi vào cái Khám gỗ, nhốt lại và quẳng cái chìa khóa xuống giếng! Ăn tiếp đi!” 

Cậu bé cắt tiếp lát bánh thứ ba và bắt đầu ngấu nghiến nó. Lần này nó ăn hết cả miếng bánh nhanh hơn hẳn hai lần trước; và ngay khi vừa ăn xong, nó lập tức nhặt lấy con dao và tiếp tục xẻ miếng bánh thứ tư; và cứ thế tiếp diễn. 

Matilda, nãy giờ vẫn chăm chú theo dõi rất kỹ, chưa thấy bất cứ một dấu hiệu nào ở Bruce Bogtrotter tỏ ra là cậu đang thấy khó chịu cả. Nếu có gì thay đổi, thì đó là cứ sau mỗi miếng bánh, cậu bé lại có vẻ tự tin hơn trước. “Anh ấy vẫn đang làm rất tốt.” cô bé thì thầm với Lavender. 

“Nhưng rồi anh ấy sẽ sớm phát ốm thôi.” Lavender đáp lại. “Sẽ kinh khủng lắm đấy.” 

Khi Bruce Bogtrotter đã chén hết hơn một nửa chiếc bánh sô cô la khổng lồ, cậu nhóc dừng lại một vài giây để hít vào mấy hơi thật sâu. 

Mụ Truchbull đứng, hai tay chống vào hông, tiếp tục quát to: “Nhanh lên! Ăn tiếp đi!” 

Bất thình lình, cậu nhóc ợ ra một tiếng to khủng khiếp, vang khắp cả hội trường như một tiếng sấm vang. Rất nhiều trong số lũ trẻ ngồi dưới bắt đầu khúc khích cười. 

“Im lặng ngay!” mụ Trunchbull thét lên. 

Cậu nhóc cắt tiếp một lát bánh thật lớn nữa và bắt đầu cố ngấu nghiến nó thật nhanh. Vẫn chưa có dấu hiệu mệt mỏi, xuống sức hay ý định đầu hàng nào từ cậu nhóc. Trông Bruce Bogtrotter chắc chắn không có vẻ sắp sửa dừng lại và khóc thét lên: “Không, em không thể ăn thêm một miếng nào nữa! Em sắp phát ốm lên mất thôi!”. Không, cậu nhóc vẫn đang ngồi đó, ngấu nghiến ăn không ngừng; còn chiếc bánh thì cứ nhỏ lại dần, nhỏ lại dần. 

Và giờ đây, một sự thay đổi nhỏ bắt đầu xuất hiện trong hơn hai trăm năm mươi đứa trẻ đang ngồi phía bên dưới khán phòng. Lúc trước đó chúng đã những tưởng sẽ có chuyện vô cùng kinh khủng sắp xảy ra với Bruce Bogtrotter. Chúng đã chuẩn bị sẵn tâm lý để chứng kiến một cảnh tượng không hề dễ coi chút nào: cậu bé tội nghiệp ngồi trên kia, bị nhồi ứ lên đến tận cổ món bánh sô cô la, sẽ phải đầu hàng và cầu xin được tha thứ; và mụ Trunchbull đắc thắng sẽ tiếp tục dùng vũ lực banh miệng cậu bé ra để đổ thêm nhiều, nhiều hơn nữa bánh sô cô la vào cổ họng cậu nhóc. 

Nhưng mọi việc không hề diễn ra như vậy. Bruce Bogtrotter đã chén hết được ba phần tư chiếc bánh, và vẫn không hề có dấu hiệu chậm lại. Thậm chí trông có vẻ cậu nhóc còn đang rất thích thú tận hưởng cái bánh sô cô la ngon lành đó nữa. Cậu nhóc giống như một kẻ bộ hành buộc phải chinh phục một trái núi và đang rất vui vẻ tiến lên; dù có lên được đến đỉnh núi hay chết vất vưởng ở giữa đường cũng chẳng sao hết. Hơn thế nữa, cậu bé bây giờ đã nhận thức rất rõ được sự ủng hộ thầm lặng của tất cả những khán giả đang ngồi dưới kia theo dõi mình. Đây, chắc chắn, không gì khác hơn, chính là một trận chiến sống còn giữa cậu và mụ Trunchbull. 

Đột nhiên có tiếng ai đó kêu to: “Cố lên, Brucie! Cậu làm được mà!” 

Mụ Trunchbull quay phắt lại và hét lên: “Im lặng!” 

Đám khán giả lại chăm chú quan sát. Chúng đã hoàn toàn để hết tâm trí theo dõi cuộc quyết đấu kia. Thực sự tất cả chúng cũng rất muốn kêu to lên để cổ vũ cho Bruce, chỉ có điều không ai dám mở miệng ra mà thôi. 

“Tớ nghĩ anh ấy sẽ làm được đấy!” Matilda thì thầm nói. 

“Tớ cũng nghĩ vậy.” Lavender trả lời. “Tớ không dám tin là có bất có bất cứ ai trên thế giới này có thể ăn hết được một lúc cả một chiếc bánh lớn đến vậy.” 

“Mụ Trunchbull có vẻ cũng không thể tin được chuyện đó.” Matilda thì thầm nói. “Trông mụ ấy mà xem. Mụ ta đang giận đến mức tím cả mặt đi kìa. Nếu anh Bruce mà thắng, tớ nghĩ dám mụ giết luôn anh ấy quá.” 

Giờ thì cậu bé Bruce đã bắt đầu chậm lại dần; ai cũng có thể thấy rõ điều đó. Nhưng cậu nhóc vẫn tiếp tục nhồi từng miếng bánh lớn vào miệng; với một lòng quyết tâm và sự bền gan bền chí cao độ của một vận động viên chạy đường dài đã trông được thấy vạch đích, và biết rằng mình phải cố gắng mà tiếp tục chạy. Đến khi miếng bánh cuối cùng được cậu bé nuốt ực xuống họng, một tiếng reo hò đến vang trời bùng lên nơi khán đài phía bên dưới, lũ trẻ nhảy cả lên ghế của mình mà đứng, hò hét, vỗ tay rầm trời và kêu to: “Giỏi lắm, Brucie! Làm tốt lắm, Brucie! Cậu xứng đáng đoạt huy chương vàng đó, Brucie!”  

Mụ Trunchbull đứng yên như phỗng trên sân khấu. Cái khuôn mặt bự chà bá của mụ chuyển sang một màu đỏ rực hệt như dung nham nóng chảy, và từ đôi mắt của mụ vọt ra những tia nhìn hết sức giận dữ. Mụ quắc mắt nhìn Bruce Bogtrotter, vẫn đang ngồi yên trên ghế như một con thú bông bị nhồi quá nhiều ruột, đến nỗi không thể nói hay cử động được một chút nào nữa. Những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán cậu, nhưng trên mặt cậu lại là nụ cười tươi roi rói của một người chiến thắng. 

Bất ngờ mụ Trunchbull lao người tới trước và chộp lấy cái khay thức ăn ban nãy đựng chiếc bánh. Mụ giơ nó lên cao quá đầu và phang thẳng nó xuống đầu Bruce Bogtrotter, làm mảnh vỡ bay khắp cả sân khấu. 

Thằng nhóc bây giờ đã no phè cả ra trong bánh, đến mức cả người nó nhũn ra như một bao xi măng ướt vậy, giờ có lấy búa tạ ra mà nện cũng chẳng có xi-nhê gì với nó đâu. Nó chỉ đơn giản là lắc lắc đầu vài cái rồi lại tiếp tục nhe răng ra mà cười. 

“Cút xuống địa ngục đi!” mụ Truchbull hét lên và rầm rầm bước xuống khỏi sân khấu, với người đầu bếp theo sát phía sau. 
___________________________

[1] Nguyên bản a riding-crop” - loại roi ngắn, thường dùng để quất ngựa trong môn cưỡi ngựa ở nước Anh. Độ dài trung bình của một cây roi loại này là từ 30 - 35 cm. 

[2] Nguyên bản: “eighteen inches”, tức mười tám in, vào khoảng xấp xỉ 46cm. Kể từ giờ, các khoảng cách trong nguyên bản được đo bằng “inch” sẽ được người dịch quy đổi về đơn vị “phân”, tức xentimet; và các khoảng cách đo bằng “foot” sẽ được quy về đơn vị mét, để độc giả có thể dễ ước lượng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét