Chủ Nhật, 29 tháng 12, 2013

9 điều trẻ em nên được học

Bài viết bởi: Leo Babauta



Leo Babauta là một blogger và tác giả của nhiều cuốn sách. Anh đã tạo ra Zen Habits, một trong 25 blog nổi tiếng nhất thế giới (theo điều tra của tạp chi TIME), với hơn 260.000 lượt theo dõi ; trang web mnmlist.com, và nhiều cuốn sách nổi tiếng như “Focus”, “The Power of Less”, và “Zen To Done”.

Babauta từng là một nhà báo với 18 năm kinh nghiệm, nay là một người chồng, một người cha của sáu đứa con, và vào năm 2010 anh đã chuyển từ Guam tới San Francisco, nơi anh sống một cuộc sống đơn giản.

– – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – –
Con trẻ ngày nay đang chưa được chuẩn bị tốt cho thế giới của tương lai.
Là một người đã đi từ thế giới của các nghiệp đoàn tới thế giới của các chính phủ, rồi tới thế giới luôn luôn thay đổi của mạng Internet, tôi biết được rằng thế giới của ngày hôm qua đang càng lúc càng trở nên không còn phù hợp nữa nhanh đến thế nào. Tôi đã được đào tạo bởi ngành công nghiệp báo chí, nơi tất cả mọi người đều tin rằng chúng ta sẽ vẫn mãi mãi phù hợp – và giờ thì tôi tin rằng họ rồi cũng sẽ bị xã hội đào thải, như trước đây xe ngựa kéo bị đào thải mà thôi.
Không may cho tôi, tôi đã được giáo dục bởi một hệ thống trường học luôn tin rằng thế giới quanh nó sẽ luôn tồn tại mãi như vậy, với chỉ một vài thay đổi nhỏ chỗ này chỗ kia. Chúng ta đều đã được đào tạo với một hệ kỹ năng dành cho những công việc được coi là “đắt hàng” nhất của những năm 1980, chứ không phải được chuẩn bị cho những gì có thể xảy ra sau năm 2000.
Và điều đó theo nét nào đấy cũng có lý, bởi suy cho cùng chẳng ai có thể biết chắc được cuộc sống sẽ thay đổi thế nào 20 năm sau. Bạn cứ thử hình dung về những năm 1980 mà xem, khi máy tính cá nhân vẫn còn non trẻ, fax vẫn là công nghệ giao tiếp tối tân nhất, và khi mạng Internet như chúng ta biết hiện nay chỉ có trong giấc mơ của những tác giả khoa học viễn tưởng như William Gibson.
Chúng ta khi đó hoàn toàn không có một tí khái niệm gì về việc một thế giới thế nào đang chờ đợi chúng ta ở phía trước.
Và vấn đề là ở chỗ này đây: đến giờ chúng ta vẫn chẳng biết thêm chút gì hết về nó cả. Và chúng ta sẽ không bao giờ có thể biết được. Chúng ta chưa bao giờ làm tốt trong việc dự đoán tương lai sẽ thế nào, vậy nên nuôi lớn và giáo dục con cái chúng ta như thể chúng ta biết tương lai sắp tới sẽ có những gì chắc chắn không phải là một ý tưởng khôn ngoan.
Vậy làm thế nào để chúng ta có thể chuẩn bị tốt cho con em mình, để chúng sẵn sàng cho một thế giới không thể dự đoán trước, không thể biết trước? Bằng cách dạy cho chúng biết thích nghi, biết cách ứng phó với mọi sự thay đổi, dạy cho chúng biết sẵn sàng cho mọi điều, bằng cách không bắt chúng phải sẵn sàng cho bất cứ một điều gì cụ thể hết.
Việc này yêu cầu một một cách tiếp cận hoàn toàn khác hẳn trong nuôi dạy và giáo dục trẻ em. Nó có nghĩa là chúng ta phải bỏ lại mọi điều mình đã biết ở phía sau, và tự mình sáng tạo lại tất cả mọi thứ.
Người vợ xinh đẹp tuyệt trần của tôi, Eva (vâng, tôi là một người đàn ông vô cùng may mắn), và tôi nằm trong số những người đang bắt đầu làm vậy. Chúng tôi giáo dục tại nhà các con của mình (homeschool) – hay chính xác hơn, chúng tôi giải phóng chúng khỏi trường học (unschool). Chúng tôi dạy các con mình cách để có thể tự học, mà không cần chúng tôi phải trao tận tay chúng kiến thức hay kiểm tra chúng những kiến thức đó.
Đây, quả thực phải thừa nhận, là một chiến trường vô cùng mới, và hầu hết tất cả chúng tôi – những người đang thử nghiệm với giáo dục không trường học – cũng phải công nhận rằng chúng tôi không có mọi câu trả lời, rằng không hề có thứ gì gọi là một phương pháp “tối ưu nhất” trong giáo dục con cái. Nhưng chúng tôi cũng đồng thời biết rằng mình cũng đang cùng học với các con mình, và rằng không biết câu trả lời cũng có thể là một điều tốt – một cơ hội để tự mình tìm ra câu trả lời đúng, không phải dựa vào những phương pháp đã có sẵn mà có thể không có hiệu quả.
Tôi sẽ không đi quá sâu vào từng phương pháp cụ thể ở đây, bởi tôi thấy rằng chúng không quan trọng bằng những ý tưởng. Một khi bạn đã có một ý tưởng thú vị để thử nghiệm rồi, bạn sẽ có thể tự mình nghĩ ra vô vàn các phương pháp khác nhau để thực hiện nó, và do vậy những phương pháp đã có từ trước của tôi sẽ chỉ làm giới hạn bạn mà thôi.
Thay vào đó, hãy cùng nhìn vào một hệ các kỹ năng quan trọng mà tôi tin rằng trẻ em ngày nay nên được học, những thứ sẽ giúp chúng chuẩn bị tốt nhất cho bất cứ thứ gì trong tương lai. Tôi xây dựng những kỹ năng này dựa vào những gì tôi đã học được trong các ngành công nghiệp khác nhau, đặc biệt là trong thế giới của kinh doanh khởi nghiệp trên Internet, xuất bản sách điện tử,... và quan trọng hơn cả, dựa vào những gì tôi đã học được về cách học, cách làm việc, và sinh sống trong một thế giới luôn biến đổi không ngừng.
1. Đặt câu hỏi. Điều chúng ta muốn nhất ở con trẻ, với tư cách những người học, là chúng phải biết cách để tự mình học. Biết cách tự dạy chính mình bất cứ thứ gì. Bởi vì nếu chúng có thể làm thế, thì chúng ta sẽ không phải dạy chúng tất cả mọi thứ – bất cứ thứ gì mà chúng cần phải học trong tương lai, chúng có thể tự mình làm lấy. Bước đầu tiên khi học cách tự dạy bản thân là học cách đặt câu hỏi. May mắn thay, trẻ em tự nhiên đã biết làm điều này – việc của chúng ta đơn giản chỉ là khuyến khích chúng mà thôi. Một cách hay nhất để làm điều này là hãy làm mẫu cho chúng. Khi bạn và con cùng gặp một điều gì đó mới, hãy đặt các câu hỏi, và khám phá những câu trả lời có thể có cùng con mình. Khi con đặt câu hỏi, hãy khen ngợi thay vì trừng phạt chúng (bạn có lẽ sẽ ngạc nhiên khi biết có bao nhiêu người lớn ngăn cấm trẻ em đặt câu hỏi).
2. Giải quyết vấn đề. Nếu một đứa trẻ biết cách giải quyết những vấn đề khó khăn, nó có thể làm được bất kể công việc gì. Một công việc mới có thể đáng sợ với chúng ta, nhưng thực tế nó cũng chỉ là một vấn đề khác để giải quyết mà thôi. Một kỹ năng mới, một môi trường mới, một nhu cầu mới... tất cả chúng đều chỉ đơn giản là những vấn đề để ta giải quyết. Hãy dạy con cách giải quyết những vấn đề bằng cách làm mẫu giải quyết những vấn đề đơn giản cho con, sau đó để cho nó tự giải quyết những vấn đề thật dễ dàng khác bằng chính sức mình. Đừng có ngay lập tức giải quyết hết tất cả mọi vấn đề cho con – hãy để nó tự xoay sở với chúng một lúc, tự mình thử nghiệm nhiều phương án có thể khác nhau; rồi hãy khen ngợi và trao thưởng cho con vì những nỗ lực đó. Dần dần, con bạn sẽ phát triển được sự tự tin ở khả năng giải quyết vấn đề của chính mình, và khi đó sẽ chẳng có gì mà nó không thể làm được.
3. Giải quyết những dự án. Là một doanh nhân khởi nghiệp từ Internet, tôi biết rằng công việc của mình chỉ là một chuỗi những dự án, đôi khi liên quan tới nhau, có cái nhỏ và có cái lớn (mà thường đôi lúc là tập hợp của nhiều cái nhỏ). Tôi cũng biết rằng không có một dự án nào mà tôi lại không thể giải quyết, bởi tôi đã giải quyết thành công quá nhiều dự án rồi. Viết một cuốn sách là một dự án. Bán cuốn sách này là một dự án khác. Hãy làm việc với các dự án cùng con bạn, cho nó thấy công việc được hoàn thành thế nào bằng cách được cùng làm với bạn, rồi sau đó hãy để nó tự làm tiếp một mình. Dần dần khi con đã tự tin hơn, hãy để nó giải quyết thêm nhiều dự án khác bằng chính sức mình. Rồi sớm thôi, việc học tập với con bạn cũng sẽ chỉ là một chuỗi những dự án mà nó háo hức muốn thực hiện.
4. Tìm thấy niềm đam mê. Thứ thúc đẩy tôi nhiều nhất không phải là mục tiêu, không phải là kỷ luật, không phải là động lực từ bên ngoài, không phải phần thưởng... mà là đam mê. Khi tôi quá hào hứng với một thứ đến mức tôi không thể ngừng nghĩ về nó được, tôi sẽ chắc chắn lao vào làm nó với 100% sức lực và tâm huyết, và hầu hết mọi trường hợp tôi đều hoàn thiện được dự án và vô cùng vui thích khi được làm nó. Hãy giúp con bạn tìm thấy niềm đam mê của mình – nó chỉ đơn giản là việc thử làm một đống các thứ khác nhau, tìm xem thứ gì khiến con bạn hào hứng nhất, và rồi giúp đỡ con thật sự tận hưởng nó. Đừng ngăn cấm bất kể sở thích nào – hãy khuyến khích chúng. Cũng đừng có hút mọi niềm vui ra khỏi nó – hãy biến nó thành một công việc đáng làm.
5. Tự lập. Trẻ em nên được dạy cách để dần dần có thể tự mình đứng độc lập. Tất nhiên là chỉ từ từ, mỗi lúc một chút một. Hãy từ từ khuyến khích con mình tự làm mọi việc. Dạy cho chúng cách làm nó, làm mẫu cho chúng, rồi dần dần giảm bớt sự giúp đỡ, và để cho con tự mình phạm sai lầm. Hãy cho con sự tự tin bằng cách để nó có một đống các thành công, và hãy để nó tự mình tìm ra nguyên nhân của những thất bại. Một khi chúng đã học được cách tự lập, chúng sẽ học được rằng chúng không cần một giáo viên, một phụ huynh, hay một ông sếp để bảo chúng phải làm gì. Chúng có thể tự mình giải quyết các thứ, được tự do, và có thể tự mình chọn lấy con đường cần phải đi.
6. Tự mình có thể hạnh phúc. Quá nhiều các bậc cha mẹ chúng ta cưng chiều con cái của mình, giữ chúng trong vòng kiểm soát, khiến chúng phải phụ thuộc vào sự có mặt của mình để thấy hạnh phúc. Khi đứa trẻ lớn lên, nó sẽ không biết làm thế nào để có thể tự mình hạnh phúc. Nó sẽ phải ngay lập tức gắn chặt bản thân với người yêu hoặc bạn bè. Khi không làm được điều đó, nó sẽ đi tìm hạnh phúc ở những thứ bên ngoài – thú vui mua sắm, đồ ăn, trò chơi điện tử, hay mạng Internet. Nhưng nếu một đứa trẻ học được từ ngày còn nhỏ rằng nó có thể tự mình hạnh phúc, khi chơi đùa hay đọc sách hay tưởng tưởng về mọi điều, thì đứa trẻ đó đã có một trong những kỹ năng đáng giá nhất trên đời rồi. Hãy cho phép con bạn được ở một mình ngay từ khi còn nhỏ. Cho chúng sự riêng tư, để ra những khoảng thời gian (như vào buổi tối chẳng hạn) khi cha mẹ và con cái ở tách biệt.
7. Biết cảm thông. Một trong những kỹ năng quan trọng nhất trong tất cả. Chúng ta cần nó để có thể làm việc tốt với những người khác, để biết quan tâm tới người khác chứ không chỉ tới riêng bản thân mình, để có thể thấy hạnh phúc khi ta giúp những người khác được hạnh phúc. Hãy làm mẫu sự cảm thông. Hãy cảm thông với con bạn trong mọi lúc, và với cả những người khác nữa. Cho chúng thấy sự thấu cảm bằng cách hỏi con xem chúng nghĩ những người khác đang cảm thấy thế nào, và nói cho con biết bạn nghĩ những người khác đang cảm thấy thế nào. Bất cứ khi nào có thể, hãy thể hiện cho con thấy làm thế nào để có thể xoa dịu nỗi đau của người khác nếu mình có thể làm được, làm thế nào để khiến người khác thấy hạnh phúc hơn bằng những cử chỉ tình thương nhỏ bé, và làm thế nào những việc đó có thể khiến chính bản thân con bạn cũng thấy hạnh phúc hơn.
8. Rộng lượng. Hầu hết chúng ta sống và lớn lên trong những môi trường khép kín, nơi hầu hết mọi người đều giống nhau (ít nhất là về ngoại hình), và đến khi ta phải tiếp xúc với những người khác ta hoàn toàn, ta có thể sẽ thấy không thoải mái, sốc, thậm chí là sợ hãi. Hãy để con bạn được tiếp xúc với đủ các loại người, từ những chủng tộc khác nhau tới những xu hướng tình dục khác nhau, tới những trạng thái tinh thần khác nhau. Cho con thấy rằng khác biệt không chỉ không có gì là xấu, mà sự khác biệt còn nên được trân trọng, và rằng chính sự đa dạng mới là thứ khiến cho cuộc sống này đẹp đến vậy.
9. Ứng phó với thay đổi. Tôi tin rằng đây là một trong những kỹ năng quan trọng nhất với con trẻ khi chúng lớn lên, bởi thế giới này luôn luôn thay đổi không ngừng; và biết cách để chấp nhận sự thay đổi, để ứng phó với thay đổi, để tự định hướng giữa dòng chảy của sự thay đổi, sẽ là một lợi thế cạnh tranh vô cùng lớn. Đây là một kỹ năng mà bản thân tôi vẫn đang phải tự học, nhưng tôi thấy rằng nó đã giúp tôi rất nhiều, đặc biệt là khi so sánh với những người chống lại và sợ sự thay đổi, những người đặt ra các mục tiêu và kế hoạch và cố bám chặt lấy chúng, trong khi tôi thì thích nghi với môi trường đang biến đổi xung quanh. Sự cố chấp bảo thủ trong một môi trường luôn biến đổi sẽ không có ích bằng tính linh hoạt, mềm dẻo và khả năng thích ứng cao. Lại một lần nữa, hãy làm mẫu kỹ năng này cho con bạn bất cứ khi nào bạn có thể, cho chúng thấy rằng thay đổi là tốt, rằng bạn có thể thích nghi, rằng bạn có thể tận dụng những cơ hội mới mà trước kia không có. Cuộc sống là một cuộc phiêu lưu, và mọi thứ sẽ có lúc đi lệch hướng, phá đổ mọi kế hoạch mà bạn đã từng vạch ra – và nó cũng chính là một phần tạo nên sự hấp dẫn cho cuộc sống này.
Chúng ta không thể chuẩn bị sẵn cho các con mình một khối dữ liệu cố định để chúng học, một công việc có sẵn để mà chuẩn bị, khi mà chính chúng ta cũng không biết tương lai liệu sẽ mang tới cái gì. Nhưng chúng ta có thể chuẩn bị cho con để chúng có thể thích nghi với mọi thứ, có thể học được mọi thứ, tự mình giải quyết mọi thứ; và để sau khoảng 20 năm nữa, chúng sẽ nhớ lại và cảm ơn chúng ta.

Ngày đăng: 14 tháng Hai, năm 2012
Nguồn bài viết: http://zenhabits.net/kid-skills/

Dịch bởi: Nguyễn Tiến Đạt (sutucon)
Dịch xong lúc 10h47, ngày 29/12/2013


Thứ Sáu, 27 tháng 12, 2013

Trẻ em của chúng ta đang thiếu hụt trầm trọng thời gian chơi

Trẻ em ngày nay được cưng chiều rất nhiều, nhưng chúng cũng phải chịu một lượng áp lực rất lớn. Nếu không được tự do để chơi đùa, các em sẽ không bao giờ có thể lớn được.

– – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – –
Tác giả: Peter Gray



Peter Gray là một nhà tâm lý và là giáo sư nghiên cứu tại Đại học Boston, Mỹ. Ông là người đã viết blog “Freedom to Learn”, và cũng là tác giả của các cuốn sách như “Free to Learn(2013) và “Psychology(2011).


Ở vùng quê tại Le Grandes Meaulnes; trẻ em chơi đùa gần làng Baudrémont, vùng Meuse, nước Pháp. Ảnh bởi Alex Webb/Magnum

Khi tôi còn là một đứa trẻ vào những năm 1950, tôi và các bạn của mình có hai nền giáo dục. Chúng tôi có trường học (mà ở vào ngày đó không quá quan trọng như hiện giờ), và chúng tôi cũng có thứ mà tôi hay gọi là nền giáo dục kiểu săn bắt-hái lượm. Chúng tôi thoải mái chơi đùa trong một nhóm những đứa trẻ hàng xóm lẫn lộn tuổi tác, hầu như mỗi ngày sau giờ tan học, thường là đến tận tối đêm. Chúng tôi chơi trong suốt những ngày cuối tuần, và trong suốt những ngày nghỉ hè. Chúng tôi có thời gian để khám phá thế giới theo đủ mọi cách khác nhau, và cũng có đủ thời gian để thấy chán, và tìm ra cách mới để lại hết chán, có thời gian để vướng vào đủ mọi loại rắc rối và tìm được cách thoát ra khỏi chúng, có thời gian để mơ mộng, để chìm đắm bản thân trong những thú vui, thời gian để đọc truyện tranh và cả tỉ thứ khác mà chúng tôi muốn xem, chứ không phải những cuốn sách mà chúng tôi được giao cho để đọc. Những gì tôi đã học được trong nền giáo dục săn bắt-hái lượm này của mình trở nên có giá trị với cuộc sống người lớn của tôi hơn rất nhiều tất cả những thứ tôi học được ở trường học, và tôi nghĩ rằng những người khác ở tuổi của tôi hẳn cũng sẽ nói vậy, nếu họ chịu dành thời gian để suy nghĩ về nó.

Trong suốt hơn 50 năm qua, nước Mỹ chúng ta đã liên tục cắt giảm dần những cơ hội để được chơi đùa của con trẻ, và điều tương tự cũng đã và đang xảy ra với rất nhiều nước khác. Trong cuốn sách của mình “Children at Play: An American History ” (2007),  Howard Chudacoff đã đề cập đến nửa đầu của thế kỷ 20 như “thời đại vàng” của tự do chơi đùa ở trẻ em. Vào những năm 1900, nhu cầu lao động trẻ em đã giảm xuống, nên trẻ em có một lượng rất lớn thời gian rảnh rỗi. Thế nhưng rồi, bắt đầu từ khoảng những năm 1960 trở đi, người lớn bắt đầu cắt gọt dần đi sự tự do đó của trẻ nhỏ, bằng cách gia tăng lượng thời gian mà các học sinh phải dành cho công việc học tập, và, rõ ràng hơn nữa, bằng cách giới hạn cả quyền được chơi đùa tự do theo ý thích của các em, kể cả khi chúng đã tan học và không phải làm bài tập. Những môn thể thao định-hướng-bởi-người-lớn bắt đầu thay thế những trò chơi “ngẫu hứng” của trẻ nhỏ; những lớp học thêm định-hướng-bởi-người-lớn dần thay thế những thú vui ngoài giờ học; và nỗi sợ của các ông bố bà mẹ còn dẫn họ đi xa đến mức thậm chí ngăn cấm con em mình ra ngoài chơi với những đứa trẻ khác, xa khỏi nhà, khỏi tầm mắt giám sát của người lớn. Có rất nhiều lý do dẫn đến những sự thay đổi này, nhưng ảnh hưởng của nó, trong suốt những thập kỷ qua, là đã tạo nên một sự suy giảm liên tục, và vô cùng trầm trọng, những cơ hội để được chơi đùa và được tự do khám phá thế giới của trẻ nhỏ.

Cũng trong quãng thời gian mấy thập kỷ mà sự tự do chơi đùa của con trẻ bị suy giảm đó, các chứng bệnh rối loạn về tinh thần ở trẻ nhỏ bắt đầu xuất hiện ngày một nhiều hơn. Chúng ta không phải chỉ đang nhìn thấy những thứ đã có từ trước mà ta đã vô tình bỏ qua. Ví dụ, các bảng câu hỏi điều tra sức khỏe với mục đích đo mức độ lo lắng và trầm cảm đã được phát đều đặn với hình thức không đổi cho các học sinh trên khắp nước Mỹ từ những năm 1950. Kết luận đánh giá từ những bảng điều tra này cho thấy có một sự tăng trưởng kéo dài và liên tục về mức độ lo lắng và trầm cảm ở những người trẻ tuổi trong suốt các thập kỷ qua. Loại hội chứng mà ngày nay vẫn được chẩn đoán là “Rối loạn lo lắng phổ quát” (‘Generalised Anxiety Disorder’, hay GAD), cũng như chứng trầm cảm nặng ở trẻ nhỏ, đã tăng vọt từ năm đến tám lần so với mức độ đo được của những năm 1950. Cũng trong khoảng thời gian đó, tỷ lệ tự tử ở những người trẻ từ 15 đến 24 đã tăng hơn gần gấp đôi, và ở những trẻ em dưới 15 tuổi thì đã tăng lên gần gấp bốn.

Sự suy giảm về cơ hội được chơi của trẻ nhỏ cũng đồng hành với sự suy giảm về mức độ cảm thông và sự tăng lên của thói ích kỷ, cả hai điều này đều đã được liên tục theo dõi và đánh giá từ những năm cuối thập kỷ 70, bằng các bảng câu hỏi điều tra tiêu chuẩn phát đều đặn hàng năm cho một số nhóm sinh viên đại học tiêu biểu. Sự cảm thông đề cập đến tính cách của những người có khả năng, và có xu hướng, có thể nhìn mọi việc từ góc nhìn của một người khác, và cảm nhận được những gì người đó đang phải cảm nhận. Sự ích kỷ đề cập đến những cái tôi đã được thổi phồng quá mức, đi cùng với một sự thiếu quan tâm hoàn toàn tới người khác, và sự bất lực trong việc kết nối cảm xúc của mình với mọi người Suy giảm lòng cảm thông và tăng lên của tính ích kỷ chính xác là những gì người ta có thể trông chờ ở một đứa trẻ lớn lên mà gần như không có cơ hội được chơi đùa với chúng bạn trong các hoạt động tập thể. Trẻ em không thể học được các kỹ năng xã hội và giá trị đạo đức này từ trường học, bởi trường học là một thế lực áp chế, chứ không phải một môi trường dân chủ. Trường học nuôi dưỡng và khuyến khích sự tranh đua về thứ hạng, chứ không phải tinh thần hợp tác; và trẻ em ở đó không được phép tự ý rời bỏ khi nó muốn, kể cả khi những người khác không hề tôn trọng nhu cầu và ước muốn của nó.

Trong cuốn sách mới đây của tôi, “Free to Learn” (2013), tôi có ghi nhận lại những thay đổi này, và tranh luận rằng sự tăng lên của các chứng bệnh rối loạn tinh thần nơi trẻ nhỏ phần lớn là hậu quả của sự suy giảm trong mức độ tự do của các em. Nếu chúng ta yêu quý con em mình, và muốn chúng phát triển khỏe mạnh, chúng ta cần cho các em nhiều thời gian và cơ hội để chơi hơn nữa, chứ không phải lấy bớt thêm đi của chúng. Ấy vậy nhưng, các nhà làm chính sách và những người nhân đức vẫn đang tiếp tục dồn ép chúng ta đi theo hướng ngược lại – hướng của nhiều giờ học hơn nữa, nhiều bài kiểm tra hơn nữa, nhiều những lối đi đã được vạch sẵn bởi người lớn cho các em hơn nữa, và ít thêm hơn nữa những cơ hội để được tự do vui chơi.
Gần đây tôi có tham gia vào một cuộc tranh luận trên sóng phát thanh với một người phụ nữ, đại diện cho một tổ chức có tên “Trung Tâm Quốc Gia về Thời Gian và Học Tập” (“National Center on Time and Learning”); tổ chức này đang vận động để kéo dài thêm thời gian ngày học ở trường và thời gian niên khóa trong năm cho các học sinh ở Mỹ (bản ghi âm cuộc tranh luận có thể được tìm thấy ở đây ). Lập luận của bà – thống nhất với mục đích hoạt động của tổ chức do bà thành lập, cũng như với những lời giục giã từ Tổng thống Mỹ Barack Obama và Bộ trưởng Bộ Giáo Dục Mỹ, ông Arne Duncan – là trẻ em cần dành nhiều thời gian hơn ở trường học như là yêu cầu hiện nay, để các em có thể được chuẩn bị tốt hơn cho một thế giới cạnh tranh không ngừng của hôm nay và cả ngày mai. Người dẫn chương trình đã giới thiệu cuộc tranh luận đó với một câu hỏi: “Liệu các học sinh của chúng ta có cần thêm nhiều thời gian hơn nữa để học không, hay liệu các em cần nhiều thời gian hơn nữa để chơi?”
Học đối đầu với chơi. Sự phân biệt rất rạch ròi đó có vẻ đã quá rõ ràng với những người như người dẫn chương trình của tôi, như đối thủ tranh luận của tôi, như ngài Tổng thống của tôi và cả ngài Bộ trưởng Bộ Giáo Dục của tôi – và có thể là cả với bạn nữa. Học tập, dựa theo những điều gần như đã là lẽ đương nhiên với nhiều người, là những gì mà trẻ em làm ở trường học, và có thể, là ở các hoạt động được định-hướng-bởi-người-lớn khác. Từ góc nhìn đó, kỳ nghỉ hè chỉ là một giờ giải lao kéo dài, có lẽ quá dài so với mức cần thiết. Nhưng ở đây tôi có một góc nhìn khác, mà đúng ra nên là điều hiển nhiên mới phải, nhưng có vẻ lại không có ai coi nó là vậy. Khi chơi đùa, trẻ em học được những bài học quan trọng nhất của cuộc sống, những bài học mà không thể được dạy ở trường học. Để học được tốt những bài học này, trẻ em cần thật nhiều thời gian để chơi – rất nhiều, rất nhiều thời gian để tự do chơi, mà không có sự can thiệp của người lớn.
Tôi là một nhà tâm lý học tiến hóa (evolutionary psychologist), tức là tôi rất có hứng thú với bản tính tự nhiên của con người, với mối quan hệ giữa nó và bản tính tự nhiên của các loài động vật khác, và làm thế nào những bản tính đó định hình quá trình chọn lọc tự nhiên. Thứ tôi đặc biệt hứng thú nhất, chính là sự chơi đùa.
Con non của tất cả các loại động vật có vú đều chơi đùa. Tại sao? Sao chúng lại muốn phung phí năng lượng và liều lĩnh mạo hiểm cả tính mạng, tay chân của mình khi chơi đùa; trong khi chúng hoàn toàn có thể cứ nằm dài nghỉ ngơi, cuộn tròn mình an toàn trong một cái ổ kín đáo nào đấy? Đó là loại câu hỏi mà các nhà tâm lý học tiến hóa thắc mắc. Người đầu tiên đặt câu hỏi cho vấn đề này từ góc nhìn theo thuyết tiến hóa Darwin là nhà triết học và sinh vật học người Đức Karl Groos. Trong một cuốn sách của mình có tên “The Play of Animals” (1898) (Tạm dịch: “Sự chơi của các loài động vật” ), Groos tranh luận rằng hoạt động chơi đùa đến cùng với chọn lọc tự nhiên, như một phương cách để đảm bảo rằng các loài động vật sẽ luyện tập những kỹ năng cần thiết cho chúng để có thể tồn tại và sinh sản sau này.
Đây được gọi là “thuyết luyện tập của sự chơi đùa” (‘practice theory of play’), và nó được chấp nhận rộng rãi bởi rất nhiều các nhà nghiên cứu hiện nay. Nó giải thích tại sao các con thú nhỏ lại chơi đùa nhiều hơn các con thú lớn (bởi vì chúng có nhiều thứ cần phải học hơn), và tại sao những loài thú ít phải phụ thuộc vào các bản năng sinh tồn thuần túy, mà thay vào đó phải sử dụng nhiều các kỹ năng yêu cầu việc học hỏi và tập luyện hơn, lại là những giống loài chơi đùa nhiều hơn. Tới một mức độ nhất định, bạn hoàn toàn có thể dự đoán được cách một loài thú sẽ chơi đùa như thế nào, nếu biết được nó cần những kỹ năng gì sau này để có thể sinh sản và tồn tại. Sư tử con và các loài thú ăn thịt khác khi còn nhỏ chơi những trò như rình mồi, vồ mồi, hoặc rượt đuổi; trong khi những chú ngựa vằn non và các loài thú hay bị săn thịt khác chơi đùa với những hoạt động như chạy trốn, hoặc tránh né kẻ địch.
Liệu chúng ta có cần thêm hơn nữa những người chỉ giỏi ghi nhớ đáp án cho các câu hỏi, và có thể đọc lại vach vách chúng không? Những người tuyệt đối chấp nhận làm tất cả những gì họ được bảo phải làm, mà không bao giờ hỏi lại một câu hỏi nào?
Groos tiếp nối cuốn sách của mình “The Play of Animals” (Tạm dịch: “Sự chơi của các loài động vật” ) với một cuốn sách thứ hai, nhan đề “The Play of Man” (1901) (Tạm dịch: “Sự chơi của con người” ); trong đó ông mở rộng những suy ngẫm của mình từ hoạt động chơi đùa ở động vật tới hoạt động chơi đùa ở con người. Ông chỉ ra rằng con người, bởi vì có nhiều thứ để học hơn tất cả các giống loài khác rất nhiều, cũng chính là loài động vật chơi nhiều nhất trong tất cả mọi loài. Không như với con non của các giống loài khác, trẻ em, các “con non” của loài người, phải học những kỹ năng khác nhau tùy thuộc vào từng vùng văn hóa khác biệt nơi chúng lớn lên. Bởi vậy, ông tranh luận rằng, chọn lựa tự nhiên ở con người ưu ái hơn rất nhiều những đứa trẻ có khả năng quan sát hành động của người lớn, và mô phỏng lại những hoạt động đó trong các trò chơi đùa của mình. Ông đề xuất rằng con trẻ trong tất cả mọi nền văn hóa, khi được tự do chơi đùa, sẽ tập chơi không chỉ những kỹ năng quan trọng với tất cả con người dù ở bất cứ đâu (ví dụ, khả năng đi và chạy thuần thục bằng hai chân), mà chúng còn tập chơi cả những kỹ năng đặc thù riêng cho mỗi nền văn hóa của mình nữa (ví dụ như bắn cung, hoặc chăn lùa gia súc).
Những nghiên cứu và ý tưởng của riêng tôi đã được xây dựng dựa trên công trình khám phá tiên phong được thực hiện bởi Groos. Một nhánh của các công trình nghiên cứu đó là quan sát các trẻ em sống trong những nền văn hóa săn bắt-hái lượm. Trước khi nông nghiệp phát triển, khoảng trên dưới 10.000 năm trước, tất cả loài người chúng ta đều sống trong những môi trường văn hóa săn bắt-hái lượm. Có những nhóm người vẫn tồn tại và phát triển đến tận ngày nay với tư cách là những kẻ săn bắt-hái lượm, và họ đang là đối tượng được nghiên cứu kỹ của các nhà nhân chủng học. Tôi đã tìm đọc tất cả những bài viết tôi có thể tìm thấy về giai đoạn trẻ em trong nền văn hóa săn bắt-hái lượm. Và một vài năm trước, tôi đã tiến hành một khảo sát nhỏ trên 10 nhà nhân chủng học, những người đã được sống trong bảy nền văn hóa săn bắt-hái lượm, trên ba lục địa khác nhau.
Những người săn bắt-hái lượm không có thứ gì giống với trường học hết. Những người lớn tin rằng con trẻ học bằng cách quan sát, khám phá, và chơi đùa, và bởi vậy họ cho chúng lượng thời gian không giới hạn để làm những điều đó. Khi trả lời cho câu hỏi khảo sát của tôi, “Trẻ em trong nền văn hóa mà bạn quan sát được dành bao nhiêu thời gian để chơi đùa mỗi ngày?”, các nhà nhân chủng học đều trả lời cùng một ý thống nhất: họ nói rằng đứa trẻ được tự do chơi trong gần như là toàn bộ khoảng thời gian nó thức, kể từ khi bốn tuổi (thời điểm đứa trẻ được coi là đã đủ lớn để có thể tự đi xa, tách khỏi người lớn, với một nhóm các trẻ em lẫn lộn đủ các tuổi khác); cho tới khoảng giữa – hoặc cuối – tuổi vị thành niên (khi các em bắt đầu tự chủ động gánh vác một số trách nhiệm của người lớn). Ví dụ, Karen Endicott, người đã nghiên cứu nhóm cư dân săn bắt-hái lượm của tộc người Batek, ở Malaysia, đã báo cáo lại rằng: “Trẻ em được tự do chơi gần như suốt cả ngày, không một ai mong chờ những đứa trẻ phải làm những công việc nghiêm túc cho tới tận khi chúng bước vào cuối tuổi vị thành niên”.
Điều này rất thống nhất với giả thiết của Groos về việc chơi đùa cũng là một hình thức luyện tập. Các bé trai liên tục chơi những trò như lần theo dấu vết, hay giả vờ đi săn thú, và cả các bé trai lẫn bé gái đều chơi những trò như tìm và đào các loại rễ cây có thể ăn được. Chúng bày những trò chơi như leo cây, nấu nướng, xây lều, và tập chế tạo các vật dụng cần thiết khác trong nền văn hóa của mình, như làm thuyền độc mộc chẳng hạn. Chúng tập tranh cãi và thảo luận, đôi lúc bắt chước lại những người lớn, cố thảo luận để xem liệu chúng có thể nghĩ ra gì tốt hơn những điều người lớn đã bàn bạc tối hôm qua bên bếp lửa hay không. Chúng hào hứng nhảy múa những điệu nhảy dân tộc; hát vang những bài ca truyền thống, nhưng chúng cũng đồng thời phịa ra những giai điệu, lời ca mới. Chúng tự làm và chơi những loại nhạc cụ giống như những thứ mà người lớn trong tộc của chúng vẫn làm và chơi. Thậm chí cả những đứa bé rất nhỏ cũng chơi với những vật nguy hiểm, như dao hoặc lửa, nhưng những người lớn để mặc cho chúng được tự do, bởi “Nếu không thế thì làm sao tụi nhỏ biết cách dùng chúng được?”. Chúng làm tất cả những điều này, và hơn cả thế nữa, không phải bởi vì người lớn đã yêu cầu hoặc khuyến khích chúng làm vậy, mà bởi vì tự chúng muốn thế. Chúng làm thế bởi vì chúng thấy nó vui; và còn bởi vì có một thứ khác ở sâu bên trong chúng, kết quả của hàng ngàn hàng vạn năm tiến hóa và chọn lọc tự nhiên, đã thúc giục chúng chơi những hoạt động phù hợp với từng nền văn hóa của mình, để chúng có thể trở thành những người lớn thạo việc và hiểu biết sau này.
Trong một nhánh khác của nghiên cứu của mình, tôi nghiên cứu những đứa trẻ được học tập tại một ngôi trường thực nghiệm theo một phương pháp giáo dục mới, trường Sudbury Valley, cũng không xa nhà tôi lắm, tại bang Massachusetts, Mỹ. Gọi là trường học, nhưng nơi đây khác xa với tất cả những gì chúng ta vẫn nghĩ về “trường học”, khác đến mức không thể khác hơn được nữa. Những học sinh – có độ tuổi trải dài từ 4 cho tới tận 19 tuổi – được tự do cả ngày để làm bất cứ thứ gì mà chúng muốn, miễn là chúng không vi phạm bất cứ nội quy nào của trường. Và các nội quy này cũng chẳng có liên quan gì đến việc học hết, chúng chỉ nhằm để giữ trật tự và ổn định trong trường mà thôi.
Với phần lớn mọi người, chuyện này quả thực là quá điên rồ. Làm thế nào mà bọn trẻ có thể học được gì với kiểu dạy như vậy? Ấy vậy nhưng, ngôi trường này đã tồn tại được 45 năm rồi, và giờ đây đã có hàng trăm học sinh từng tốt nghiệp từ đây. Những người này có thể làm việc hoàn toàn hiệu quả trong xã hội, không phải bởi vì ngôi trường họ học đã dạy gì tuyệt vời cho họ, mà bởi vì nó đã cho phép họ được tự do học bất cứ thứ gì mà họ muốn. Và, cũng thống nhất với lý thuyết của Groo, những gì các em nhỏ trong nền văn hóa của chúng ta muốn học khi chúng được tự do chọn lựa, rút cục đều trở thành nhưng kỹ năng được đánh giá rất cao trong nền văn hóa của chúng ta, có thể đem đến những công việc tốt và một cuộc sống thỏa mãn. Khi chúng chơi, những học sinh này học cách đọc, tính toán, và sử dụng máy tính với cùng một niềm ham thích đầy hứng thú như cách những đứa trẻ trong nền văn hóa săn bắt-hái lượm kia đã học những kỹ năng săn bắt và hái lượm. Chúng có thể không thực sự nghĩ rằng mình đang học. Chúng có thể nghĩ rằng mình chỉ đang chơi, hoặc thử “tự làm các thứ”, nhưng chính trong quá trình đó, chúng cũng đang học.
Một thứ còn quan trọng hơn cả những kỹ năng cụ thể, đấy là những thái độ, suy nghĩ và cảm xúc mà chúng đã học được. Chúng học được cách chịu trách nhiệm với bản thân và trước cộng đồng của mình, và chúng học được rằng cuộc sống rất vui, thậm chí (và có thể đặc biệt là) khi nó có đầy những khó khăn thử thách. Tôi cũng phải nói thêm rằng đây không phải là một ngôi trường đắt đỏ gì; nó hoạt động với mức thu phí trên một học sinh chỉ bằng một nửa so với các trường công lập trong cùng khu vực, và ít hơn nhiều so với hầu hết mọi trường tư.
Trường thực nghiệm Sudbury Valley và những bộ tộc săn bắt-hái lượm kia có thể khác nhau ở rất nhiều mặt, nhưng chúng giống nhau ở cùng một điểm, đó là đều cung cấp cho con trẻ những điều – mà theo tôi nghĩ – là những điều kiện cốt yếu, quan trọng nhất để phát triển đến tối đa khả năng tự giáo dục bản thân tự nhiên nhất ở trẻ nhỏ. Cả hai cùng chia sẻ một yêu cầu của xã hội (và cả một thực tế) rằng giáo dục là trách nhiệm của trẻ em, không phải là thứ người lớn làm cho chúng; và họ cho trẻ em quyền tự do tối thượng để được thỏa sức chơi đùa, khám phá, và theo đuổi sở thích riêng của mình. Họ đồng thời cũng cung cấp đủ cơ hội để các em được chơi với những công cụ của xã hội; để các em có thể tiếp cận với thật nhiều những người lớn yêu thương và hiểu biết khác nhau, những người ở đó để giúp đỡ, chứ không phải để phán xét; và cung cấp cho các em những nhóm bạn với lẫn lộn nhiều nhóm tuổi, cả trẻ em lẫn thiếu niên (chơi với một tập thể lẫn lộn nhiều nhóm tuổi sẽ giúp việc học dễ dàng hơn là chơi trong một nhóm mà tất cả đều cùng một trình độ). Cuối cùng, trong cả hai bối cảnh, trẻ em đều được đắm mình trong một cộng đồng ổn định, giàu đạo đức, vậy nên chúng có thể thu được những giá trị của cộng đồng, và có một cảm giác trách nhiệm với tất cả những người khác, chứ không phải chỉ với riêng bản thân mình.
Tôi không kỳ vọng sẽ thuyết phục được hầu hết mọi người, ít nhất là cũng không phải trong tương lai gần, rằng ta nên bãi bỏ tất cả mọi trường học như chúng ta biết hiện giờ, và thay thế chúng bằng những trung tâm để chơi đùa tự-định-hướng và để khám phá cho trẻ nhỏ. Nhưng tôi có tin rằng có một cơ hội để thuyết phục phần lớn mọi người rằng thời gian chơi đùa bên ngoài giờ học là vô cùng quan trọng với trẻ em. Chúng ta ngay lúc này đã lấy bớt nó đi của các em quá nhiều rồi, chúng ta tuyệt đối không thể lấy thêm một chút nào nữa.
Tổng thống Obama và ngài Bộ trưởng Bộ Giáo Dục của ông, ông Arne Duncan, cùng với nhiều những người ủng hộ khác cho trường học truyền thống và nhiều bài kiểm tra hơn nữa, muốn trẻ em phải được chuẩn bị tốt hơn cho thế giới ngày hôm nay và ngày mai. Nhưng chuẩn bị như thế nào là cần thiết? Liệu chúng ta có cần thêm hơn nữa những người chỉ giỏi ghi nhớ đáp án cho các câu hỏi, và có thể đọc lại vach vách chúng không? Những người tuyệt đối chấp nhận làm tất cả những gì họ được bảo phải làm, mà không bao giờ hỏi lại một câu hỏi nào? Trường học được thiết kế ra để dạy con người những cái đó, và nó đã làm được điều đó khá tốt. Hay liệu chúng ta cần những người có thể đặt ra những câu hỏi mới và biết tìm ra những câu trả lời mới, biết tư duy một cách có suy xét và sáng tạo, biết phát kiến và tự chủ động đưa ra quyết định, và biết cách vừa làm vừa học, không cần sự trợ giúp từ bất cứ ai? Tôi dám cá là các ông Obama và Duncan cũng sẽ đồng ý rằng mọi đứa trẻ cần những kỹ năng đó vào lúc này hơn lúc nào hết. Nhưng trường học hiện giờ lại tệ hại vô cùng trong việc dạy những kỹ năng này.
Đã từ suốt hơn hai thập kỷ nay, các nhà điều hành giáo dục ở Mỹ, Anh và Úc đã liên tục thúc giục chúng ta cần phải học tập các trường học ở Châu Á – đặc biệt là các trường học ở Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc. Trẻ em ở đó dành nhiều thời gian hơn cho việc học so với trẻ em Mỹ, và cũng ghi điểm cao hơn nhiều trong những bài kiểm tra tiêu chuẩn của quốc tế. Nhưng điều mà ngài Bộ trưởng Giáo Dục Duncan có vẻ không nhận ra, hay không chịu thừa nhận, đấy là các nhà điều hành giáo dục tại những quốc gia đó cũng đang càng lúc càng phê phán nền giáo dục của chính đất nước họ, coi chúng như là những thất bại. Trong khi đúng là các ngôi trường của họ đã làm rất xuất sắc trong việc sản xuất ra các học sinh đạt điểm cao ngất ngưởng trong những bài kiểm tra, chúng vẫn vô cùng tệ hại trong việc tạo ra được những người sau tốt nghiệp có khả năng sáng tạo, hay có một niềm ham thích với học tập.
Trong một bài báo với tiêu đề “Các trường học giỏi làm bài kiểm tra của Trung Quốc vẫn đang thất bại” (The Test Chinese Schools Still Fail’), trên báo The Wall Street Journal số ra tháng 12 năm 2010, Jiang Xueqin, một nhà giáo dục Trung Quốc nổi tiếng, đã viết: “Những thất bại của hệ thống giáo dục dạy theo kiểu bắt học thuộc lòng kiến thức đã quá rõ ràng: người học thiếu hẳn kỹ năng xã hội và những kỹ năng thực tế khác, không có tính tự chủ và thiếu trí tưởng tượng, đánh mất trí tò mò và niềm ham thích dành cho học tập... Một cách để chúng ta biết rằng chúng ta đang thành công trong việc thay đổi nền giáo dục của Trung Hoa, đấy là khi những điểm số [của những bài kiểm tra tiêu chuẩn hóa] này hạ xuống”. Trong lúc đó, Yong Zhao, một giáo sư ngành giáo dục Mỹ, người đã lớn lên tại Trung Quốc, và chuyên ngành về so sánh nền giáo dục của Trung Quốc với hệ thống giáo dục ở Mỹ, đã chép lại rằng thuật ngữ thường sử dụng ở Trung Quốc khi nói đến những người sau tốt nghiệp là gaofen dineng, có nghĩa là “điểm cao, nhưng khả năng thấp”. Bởi vì các học sinh dành hầu hết thời gian để học và học, các em có gần như rất ít cơ hội để được tư duy sáng tạo, để tự chủ động ra quyết định, hay để phát triển những kỹ năng thể chất hoặc xã hội khác: nói gọn lại, các em có rất ít cơ hội để được chơi.
Thật không may, khi chúng ta đang càng lúc càng tiến dần đến một chương trình học tiêu chuẩn hóa, và khi chúng ta vẫn đang càng lúc càng chiếm dụng dần nhiều thời gian hơn nữa của con em chúng ta với các bài kiểm tra và giờ học, kết quả nền giáo dục của chúng ta thực sự đang càng lúc càng giống với kết quả của nền giáo dục ở các quốc gia Châu Á kia. Một bằng chứng cho điều này đến từ kết quả của một hệ thống đơn vị đo lường sự sáng tạo – có tên Bài Kiểm tra Torrance về Tư duy Sáng tạo (Torrance Tests of Creative Thinking, hay viết tắt là TTCT) – với những dữ liệu thu thập được từ nhiều nhóm học sinh Mỹ tiêu biểu, trải dài từ mẫu giáo tới hết lớp 12 (khoảng 17-18 tuổi) , trong suốt vài thập kỷ qua. Kyung-Hee Kim, một nhà tâm lý học giáo dục tại Đại học William và Mary ở bang Virginia, Mỹ, đã đánh giá những điểm số này, và báo cáo lại rằng chúng đã bắt đầu suy giảm dần từ năm 1984, và vẫn đang tiếp tục suy giảm rõ rệt kể từ đó đến giờ. Như Kim đã dùng trong một bài viết của cô, “Cuộc Khủng Hoảng Sáng Tạo” (‘The Creativity Crisis’), đăng trên tạp chí Creativity Research Journal số ra năm 2011, những dữ liệu thu thập được cho thấy rằng “trẻ em đã trở nên ít thể hiện cảm xúc hơn, ít hăng hái hơn, ít vui vẻ hài hước hơn, ít tưởng tượng hơn, ít mới lạ so với truyền thống hơn, ít hoạt náo và đam mê hơn, ít sáng dạ hơn, ít có thể liên kết những thứ tưởng chừng không liên quan lại với nhau hơn, và ít có khả năng có thể nhìn mọi việc từ một góc độ khác hơn”.
Bạn không thể dạy được sự sáng tạo, tất cả những gì bạn có thể làm chỉ là để cho nó tự nảy nở, và sự sáng tạo sẽ nảy nở trong những lúc chơi đùa.
Từ các nghiên cứu của Kim, có thể thấy rằng tất cả các khía cạnh của sự sáng tạo đều đã suy giảm, nhưng sự suy giảm lớn nhất là ở phần đơn vị “phát triển sáng tạo” (‘creative elaboration’),  đo đạc khả năng phát triển một ý tưởng cụ thể nào đó theo một hướng thú vị và mới mẻ. Từ năm 1984 tới 2008, số điểm “phát triển sáng tạo” trung bình của bảng đánh giá TTCT, ở tất cả các khối học từ mầm non trở đi, đều đã giảm xuống ít nhất là một bậc. Nói một cách khác, nó có nghĩa là hơn 85% trẻ em của năm 2008 có điểm số thấp hơn ở hạng mục này so với một đứa trẻ trung bình của năm 1984. Nếu những “nhà cải cách” giáo dục đạt được ý nguyện của họ, nó sẽ còn suy giảm hơn nữa, khi mà trẻ em tiếp tục bị tước đoạt thêm thời gian chơi của mình. Một nghiên cứu khác, thực hiện bởi nhà tâm lý học Mark Runco và các đồng nghiệp tại Trung tâm Torrance về Tư duy Sáng tạo tại Đại học Georgia, Mỹ đã cho thấy rằng các điểm số trên Bài Kiểm tra TTCT là công cụ tốt nhất chúng ta có để có thể dự đoán được những thành tựu của tương lai. Chúng là những công cụ dự đoán còn tốt hơn cả chỉ số IQ, bảng điểm phổ thông, hay chế độ đánh giá bởi đồng nghiệp (peer judgments) để xem ai sẽ là những người có thể đạt được nhiều thành tựu nhất trong tương lai.
Bạn không thể dạy được sự sáng tạo, tất cả những gì bạn có thể làm chỉ là để cho nó tự nảy nở và phát triển. Trẻ nhỏ, trước khi chúng bắt đầu đi học, đã rất sáng tạo theo một cách vô cùng tự nhiên rồi. Những nhà phát kiến vĩ đại nhất của chúng ta, những người chúng ta gọi là các thiên tài, là những người đã bằng cách nào đấy giữ lại được khả năng tuyệt vời từ thuở ấu thơ đó, và xây dựng thêm lên từ nó, trong suốt cả phần đời còn lại của mình.  Albert Einstein, người hiển nhiên rất ghét trường học, đã đề cập đến thành công của mình trong ngành vật lý lý thuyết và toán học như là “một sự chơi đùa tổ hợp”. Một lượng lớn các nghiên cứu đã chỉ ra rằng con người ở vào trạng thái sáng tạo nhất khi họ tràn đầy tinh thần của sự vui chơi, khi họ nhận thấy rằng bản thân mình đang làm một công việc nào đó chỉ vì vui thích đơn thuần. Như nhà tâm lý học Teresa Amabile, giáo sư tại Đại học Kinh Tế Harvard, đã giới thiệu trong cuốn sách của bà, “Creativity in Context” (1996), và cũng như trong rất nhiều thí nghiệm đã cho thấy, việc nỗ lực tăng khả năng sáng tạo của con người bằng cách treo phần thưởng cho họ, hoặc bằng cách đặt họ vào trong những cuộc thi để xem ai là người sáng tạo hơn, đều sẽ chỉ phản tác dụng hoàn toàn. Rất khó để có thể sáng tạo khi bạn phải lo lắng đến đánh giá và phán xét của những người khác. Ở trường học, hoạt động của trẻ em liên tục bị đánh giá và phán xét. Trường học là một nơi tốt để học cách làm những gì người khác muốn bạn làm; nó là một nơi tệ hại đến vô cùng cho việc rèn luyện khả năng sáng tạo.
Khi Chanoff và tôi nghiên cứu những học sinh đã tốt nghiệp từ trường Sudbury Valley cho bài viết của chúng tôi: “Trường học dân chủ: “Điều gì đã xảy ra với những công dân trẻ khi họ có quyền điều hành toàn bộ nền giáo dục của mình?”, chúng tôi đặt các câu hỏi về những hoạt động mà họ đã chơi khi còn là học sinh, và về sự nghiệp mà họ đã chọn để theo đuổi sau khi tốt nghiệp. Trong rất nhiều trường hợp, có một mối liên hệ trực tiếp giữa hai nhân tố này. Các học sinh sau khi tốt nghiệp vẫn tiếp tục chơi với những hoạt động mà họ đã yêu thích khi còn là học sinh, với cùng một niềm vui, lòng ham thích và trí sáng tạo như vậy, chỉ khác là giờ đây, họ có thể làm ra tiền nhờ nó. Có những nhạc công chuyên nghiệp đã từng chơi với âm nhạc rất say sưa khi họ còn là các học sinh, và những lập trình viên tin học đã từng dành hầu hết thời gian còn đi học của họ để nghịch ngợm chơi đùa trên máy vi tính. Một người phụ nữ, người giờ là thuyền trưởng của một chiếc du thuyền, đã dành phần lớn thời gian làm học sinh của cô để chơi đùa với nước, trước tiên là với những con tàu đồ chơi, rồi dần dần đến những con tàu thật. Một người đàn ông giờ là một nhà chế tạo máy đắt giá, được khắp nhiều nơi săn đón, đã giành cả tuổi thơ của mình vô cùng vui thích chế tạo các thứ, cũng như gỡ tung tất cả mọi vật ra để xem chúng hoạt động như thế nào.
Không một người nào trong số họ sẽ có thể khám phá ra được những niềm đam mê này trong một ngôi trường tiêu chuẩn bình thường, nơi thời gian chơi đùa liên tục và tự do như vậy là thứ không bao giờ có. Trong một ngôi trường tiêu chuẩn, tất cả mọi người phải làm đúng hệt những gì mà người khác đang làm. Kể cả những ai có phát triển được đam mê với một thứ gì đó được dạy ở trường học, cũng sẽ phải học cách để kiềm chế nó lại, bởi dù có thích đến đâu đi nữa thì khi tiếng chuông báo đổi tiết học vang lên, họ vẫn sẽ phải dừng tất cả lại để chuyển sang một thứ gì đó khác. Chương trình học và những thời khóa biểu cố định đã kiềm thúc, khiến họ không thể theo đuổi được ham thích nào theo một cách sáng tạo và có ý nghĩa với bản thân mình. Rất nhiều năm trước đây, trẻ em vẫn còn có thời gian bên ngoài giờ học để theo đuổi những ham thích của mình, nhưng ngày nay các em đã quá bận với công việc học tập và đủ các hoạt động định-hướng-bởi-người-lớn khác rồi, hiếm khi các em có được một chút thời gian, hay một chút cơ hội nào, để được khám phá và đắm chìm bản thân mình trong những hoạt động mà các em thật lòng yêu thích.
Để có một cuộc hôn nhân hạnh phúc, hay những người bạn tốt, hay những người đồng nghiệp tuyệt vời, chúng ta cần phải biết cách hòa đồng với những người khác: có lẽ đó là kỹ năng quan trọng nhất mà mọi đứa trẻ cần phải học để có một cuộc sống thỏa mãn. Trong những nhóm người săn bắt-hái lượm, ở trường Sudbury Valley, và ở bất cứ nơi nào mà trẻ em có quyền tiếp cận thường xuyên với những trẻ em khác, hầu hết các hoạt động chơi đùa sẽ là chơi theo nhóm. Chơi theo nhóm chính là trường học để học về những kỹ năng giao tiếp xã hội.
Lý do khiến chơi đùa đóng một vai trò quan trọng đến vậy trong việc truyền đạt lại các kỹ năng giao tiếp xã hội chính là ở việc nó là một hoạt động hoàn toàn tự nguyện. Mọi người chơi đều có thể tự do bỏ đi nếu muốn, và khi họ không vừa ý họ sẽ bỏ đi. Mỗi người chơi đều biết rõ điều đó, vậy nên mục đích cuối cùng của những ai muốn trò chơi được tiếp tục, đấy là phải làm thỏa mãn được nhu cầu và ước muốn của bản thân mình, trong khi đồng thời vẫn phải thỏa mãn được những nhu cầu và ước muốn của các người chơi khác, để họ không bỏ đi. Giao tiếp trong khi chơi như vậy bao gồm rất nhiều thương lượng và thỏa hiệp. Nếu cô bé Betty Hống Hách muốn tự mình đặt ra mọi luật lệ và ra lệnh cho các bạn chơi của mình mà không để tâm đến ước muốn của họ, các bạn chơi của cô bé sẽ bỏ mặc cô bé lại một mình, và bắt đầu trò chơi của riêng chúng ở một chỗ nào khác. Đó là một động lực rất mạnh mẽ để buộc cô bé lần sau sẽ phải quan tâm đến các bạn của mình nhiều hơn. Những người bạn chơi đã bỏ đi kia cũng có thể sẽ học được một bài học khác nữa. Nếu chúng muốn chơi với Betty, người tuy hống hách nhưng vẫn có những phẩm chất mà chúng thích, lần tới chúng sẽ phải nói lớn và dõng dạc, rõ ràng hơn , phải khiến nhu cầu của chúng trở nên rõ ràng hơn nữa, để cho cô bé kia không thể tiếp tục tự mình điều hành cả trò chơi và lại phá hết niềm vui của cả bọn lần nữa. Để có thể vui vẻ thoải mái trong khi chơi đùa với tập thể, bạn buộc phải chủ động, nhưng cũng không được áp chế; và điều đó đúng với tất cả mọi dạng sinh hoạt xã hội trên đời.
Hãy nhìn bất kỳ nhóm trẻ con nào đang chơi và bạn sẽ thấy rất nhiều thương lượng và thỏa hiệp. Trẻ con mẫu giáo chơi “đồ hàng” dành nhiều thời gian để thảo luận về cách chơi hơn là thực sự chơi. Tất cả mọi thứ đều cần phải thương lượng – ai được làm “mẹ”, ai phải chịu làm “em bé”, ai được dùng đồ chơi gì để giả làm đồ hàng, và kết thúc câu chuyện của “gia đình” này sẽ là như thế nào. Những người chơi giỏi sẽ biết khéo léo dùng cách hỏi xác nhận để biến câu ra lệnh của mình thành một lời yêu cầu nhã nhặn: “Bây giờ giả vờ cái dây chuyền này là của tớ nhé, được không?”. Nếu đối phương không chịu, vậy thì cuộc thảo luận lại được tiếp tục.
Chúng ta không cùng mạnh mẽ như nhau, không cùng thông minh sáng dạ như nhau, cũng không cùng khỏe mạnh như nhau; nhưng tất cả chúng ta đều xứng đáng được tôn trọng, và được đáp ứng các nhu cầu của mình, như nhau.
Hoặc là hãy nhìn một nhóm trẻ em lẫn lộn nhiều nhóm tuổi chơi một trận đấu bóng chày “ngẫu hứng”. Một trò chơi ngẫu hứng là một sự chơi đùa tự do, bởi nó được quyết định bởi chính những người chơi, chứ không phải bởi một thế lực điều khiển từ bên ngoài (như huấn luyện viên hay trọng tài). Những người chơi phải tự chọn bên, thương lượng với nhau về luật lệ để phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, quyết định xem thế nào là công bằng và thế nào là không. Chúng phải hợp tác, không phải chỉ với những đồng đội cùng phe với mình, mà còn với cả những thành viên của đội đối thủ nữa, và chúng cần phải thật nhạy cảm với mọi yêu cầu và năng lực của từng thành viên tham gia. Billy Bé Bự có thể là tay ném bóng cừ khôi nhất, nhưng nếu những cầu thủ khác muốn được một lượt ném bóng, cậu bé nếu biết điều thì nên chịu nhượng bộ, để cho họ không bỏ đi. Và khi cậu ném bóng cho Timmy Còi Dí, người mới chỉ vừa học luật chơi, cậu nếu biết khôn thì nên ném quả bóng đi thật nhẹ nhàng, đúng ngay tầm vụt bóng của Timmy thôi, nếu không thì ngay cả chính những đồng đội của cậu cũng sẽ gọi cậu là đồ xấu tính. Nhưng khi cậu ném cho Wally Cao Kều chẳng hạn, cậu sẽ cần phải ném hết sức, nếu không Wally sẽ cảm thấy bị xúc phạm. Trong cuộc chơi ngẫu hứng, giữ cho cuộc chơi tiếp tục và vui cho tất cả mọi người còn quan trọng hơn gấp nhiều lần giành được chiến thắng.
Nguyên tắc vàng cho chơi đùa với tập thể không phải là “Hãy làm mọi thứ với những người khác như cách bạn muốn họ làm điều đó với mình”. Thay vào đó là một thứ khó hơn rất nhiều: “Hãy làm mọi thứ với những người khác như cách mà họ muốn bạn làm điều đó với họ”. Để làm được điều đó, bạn cần phải đặt mình vào suy nghĩ của người khác, và nhìn thấy được mọi thứ từ quan điểm của họ. Trẻ em tập luyện điều đó suốt trong những trò chơi tập thể. Sự bình đẳng trong chơi đùa không phải là sự bình đẳng của những cá nhân giống hệt nhau. Thay vào đó, nó là sự bình đẳng đến từ việc tôn trọng sự khác biệt của từng cá nhân, và đối xử với những nhu cầu và ước muốn của mỗi người với cùng một mức độ quan trọng như nhau. Đó cũng chính là, theo tôi nghĩ, cách diễn đạt lại tốt nhất câu nói nổi tiếng của Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson, rằng tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Chúng ta không cùng mạnh mẽ như nhau, không cùng thông minh sáng dạ như nhau, cũng không cùng khỏe mạnh như nhau; nhưng tất cả chúng ta đều xứng đáng được tôn trọng, và được đáp ứng các nhu cầu của mình, như nhau.
Tôi không muốn quá thần tượng hóa trẻ em. Không phải mọi trẻ em đều học được những bài học này một cách dễ dàng; những bọn bắt nạt vẫn luôn tồn tại. Nhưng chơi đùa với tập thể cho tới giờ vẫn là con đường hiệu quả nhất để học những bài học như vậy, và tôi ngờ rằng niềm ham muốn mãnh liệt được chơi những trò chơi như vậy ở trẻ em đã xuất hiện trong tiến hóa, chính là vì mục đích như vậy. Các nhà nhân chủng học đã báo cáo lại rằng gần như hoàn toàn không có hành động bắt nạt hay áp chế nào trong những cộng đồng săn bắt-hái lượm. Trên thực tế, có một tên gọi khác vẫn thường xuyên được sử dụng cho những cộng đồng như vậy, đó là “xã hội quân bình” (egalitarian society).  Những cộng đồng này không hề có một tộc trường, hay tù trưởng nào, không có một hệ thống thứ bậc hay giai cấp lãnh đạo gì hết; họ chia sẻ mọi chứ họ có, và cùng hợp tác một cách hoàn toàn tự nhiên bên nhau để có thể sinh tồn; họ đưa ra những quyết định có thể ảnh hưởng đến cả cộng đồng thông qua những cuộc thảo luận kéo dài nhằm tìm đến một ý kiến thống nhất vừa ý tất cả mọi người. Một lý do quan trọng khiến họ có thể làm được thế, theo tôi, nằm ở lượng thời gian lớn đến đáng kinh ngạc mà họ đã dành để chơi đùa với tập thể khi họ còn nhỏ. Những kỹ năng và giá trị được thực tập trong những quãng thời gian chơi đùa đó chính xác là những thứ quan trọng, sống còn nhất với cuộc sống của một cộng đồng săn bắt-hái lượm. Ngày nay bạn có thể tồn tại mà không có những kỹ năng và giá trị ấy, nhưng, tôi nghĩ, sẽ khó lòng mà thấy hạnh phúc cho được.
Vậy là, chơi dạy cho chúng ta những kỹ năng xã hội mà thiếu nó, cuộc sống sẽ trở nên vô cùng khổ sở. Nhưng nó đồng thời cũng dạy cho ta cách kiềm chế các cảm xúc căng thẳng, tiêu cực như sợ hãi hay giận dữ. Các nhà khoa học chuyên nghiên cứu hành vi chơi đùa ở động vật tranh luận rằng một trong những mục đích chính của chơi đùa là để giúp những con non học cách có thể đối phó tốt về mặt cảm xúc (cũng như về thể chất) với những tình huống khẩn cấp. Động vật chưa trưởng thành ở rất nhiều giống loài đều cố tình, và liên tục, đặt bản thân mình vào những tình huống hơi có một chút nguy hiểm, hơi có một chút đáng sợ khi chơi đùa. Tùy thuộc vào mỗi loài, chúng có thể nhảy vọt lên trên không và khiến cho việc tiếp đất trở nên khó khăn, chạy dọc đến sát rìa của những mép đá, chuyền từ cành nọ sang cành kia đủ cao để nếu ngã có thể bị thương, hoặc chơi giả-vờ-đánh-nhau mà trong đó chúng lần lượt đặt mình vào tình thế nguy hiểm, để tự ép mình phải thoát ra khỏi đó cho bằng được.
Những trò ăn vạ có thể hiệu quả với những bậc cha mẹ, nhưng chúng không bao giờ có tác dụng gì với những bạn cùng chơi hết.

Trẻ em ở loài người, khi được thả cho tự do, cũng làm đúng như vậy, và luôn khiến cho các bà mẹ phải hết sức lo lắng. Chúng đang để cho bản thân chìm đắm trong sợ hãi, nhắm tới mức độ sợ hãi cao nhất mà mình có thể chịu được, và học cách để đối phó với nó. Những trò chơi như thế phải luôn được đứa trẻ tự-định-hướng, không bao giờ được cưỡng ép hay thậm chí được khuyến khích bởi một thế lực lãnh đạo bên ngoài. Bắt trẻ em phải trải nghiệm nỗi sợ khi chúng chưa sẵn sàng là rất độc ác, như khi các giáo viên thể dục bắt bọn trẻ phải leo dây lên tới tận xà nhà, hoặc đu mình từ một nấc thang này đến một nấc thang kia. Ở những trường hợp đó hậu quả có thể sẽ là hoảng loạn, hổ thẹn, và cả nhục nhã nữa, tất cả những thứ chỉ có tác dụng giúp làm suy giảm, thay vì tăng cường khả năng chống chịu với nỗi sợ trong tương lai ở các em.
Trẻ em cũng đồng thời trải nghiệm cả sự giận dữ trong khi chơi. Cơn tức giận có thể bùng phát lên vì một cú đẩy vô tình, hoặc cố ý, hay một lời trêu chọc, hay từ thất bại trong tranh cãi với một bạn chơi khác. Nhưng những đứa trẻ muốn tiếp tục được chơi sẽ phải học cách kiểm soát cơn giận đó, dùng nó một cách hợp lý để tỏ ra chủ động, nhưng không được phép được đột nhiên nổi đóa. Những trò ăn vạ có thể hiệu quả với những bậc cha mẹ, nhưng chúng không bao giờ có tác dụng gì với những bạn cùng chơi hết. Nhiều bằng chứng đã cho thấy rằng con non của các loài động vật khác cũng học cách điều khiển cơn giận và sự hung hăng của mình thông qua việc chơi đùa với tập thể.
Ở trường học, và ở những bối cảnh khác nơi người lớn có quyền điều hành kiểm soát, họ ra mọi quyết định cho con trẻ, và giải quyết hộ mọi vấn đề cho chúng. Trong khi chơi thì trẻ con tự mình ra lấy quyết định, và tự mình giải quyết những vấn đề của riêng chúng. Trong bối cảnh bị định-hướng-bởi-người-lớn, trẻ con luôn yếu ớt và dễ bị tổn thương. Khi chơi đùa, chúng mạnh mẽ và đầy quyền lực. Thế giới của những cuộc chơi chính là thế giới mô phỏng, luyện tập của đứa trẻ để sau này làm một người lớn. Chúng ta nghĩ đến chơi như một thứ gì đó trẻ ranh và ngớ ngẩn, nhưng với đứa trẻ, chơi chính là tập trải nghiệm cảm giác của một người lớn: được hoàn toàn tự chủ, và có thể tự chịu trách nhiệm. Khi chúng ta tước đoạt chơi đùa đi khỏi trẻ em, chúng ta cũng tước đoạt đi khỏi chúng khả năng tập luyện để làm người lớn, và thế là chúng ta tạo ra những con người sẽ trải qua cuộc sống này với một tâm lý phụ thuộc và luôn mang cảm giác của một nạn nhân, một cảm giác rằng sẽ luôn có một ai đó ngoài kia chỉ bảo cho họ biết phải làm gì, và giải quyết hộ cho họ mọi rắc rối. Đó chắc chắn không phải là một cách sống lành mạnh.
Các nhà nghiên cứu đã phát triển những cách để nuôi dạy chuột và khỉ con theo hướng để cho chúng trải nghiệm tất cả các tương tác xã hội khác, nhưng tuyệt đối không cho chúng chơi. Kết quả là những động vật không-được-chơi này bị thương tật về cảm xúc khi được kiểm tra với tư cách là những con thú lớn mới trưởng thành. Khi được đặt vào trong một môi trường hơi có chút đáng sợ, chúng đông cứng trong sợ hãi, và thất bại trong việc vượt qua nỗi sợ để tiếp tục khám phá khu vực, như cách mà một con khỉ hoặc chuột bình thường sẽ làm. Khi được đặt vào cùng một chuồng với một đồng bạn không quen thuộc, chúng run rẩy sợ hãi hoặc nổi đóa với những hành vi kích động không phù hợp, và cũng không hiệu quả; đôi lúc là cả hai biểu hiệu trên.
Trong những thập kỷ gần đây, chúng ta, với tư cách một xã hội, cũng đã tiến hành một thử nghiệm không-cho-chơi tương tự với những đứa trẻ của chúng ta. Trẻ em ngày nay không hoàn toàn bị ngăn cấm chơi đùa như những con chuột và khỉ trong thí nghiệm động vật kia, nhưng các em cũng đã bị cấm cản hơn rất nhiều so với những thế hệ trẻ em của hơn 60 năm trước; và hơn rất, rất nhiều trẻ em trong những cộng đồng săn bắt-hái lượm. Hậu quả, tôi nghĩ, là đã rõ. Ngăn cấm chơi là có hại cho trẻ nhỏ. Bên cạnh rất nhiều thứ khác, nó còn làm gia tăng căng thẳng, lo lắng, trầm cảm, tự sát, tính ích kỷ, và còn làm hao hụt dần tính sáng tạo. Đã đến lúc phải chấm dứt cái thử nghiệm này rồi.

Xuất bản ngày 18 tháng Chín, năm 2013
Chủ đề bài đăng: Tuổi thơ, Giáo dục, Xã hội


Người dịch: Nguyễn Tiến Đạt (sutucon)

Dịch xong lúc 01h39, ngày 27/12/2013

·         Chỉnh sửa lần 1 xong lúc 09h19, ngày 27/12/2013
·         Chỉnh sửa lần 2 xong lúc 15h58, ngày 27/12/2013
·         Chỉnh sửa lần 3 xong lúc 17h00, ngày 27/12/2013

Thứ Tư, 25 tháng 12, 2013

Nếu được chọn, tôi muốn được giải phẫu.


Hiện nay đang không có đủ những người muốn hiến toàn-bộ thân xác cho khoa học. Tại sao mọi người lại không muốn cái chết của mình có thể giúp ích cho những người còn sống?
– – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – 

Tác giả: Brooke Borel



Brooke Borel là một cây bút về khoa học. Những bài viết của cô đã được xuất hiện trên các tạp chí Slate, Discover, và BBC Future, và cô cũng là một biên tập viên có đóng góp tích cực cho tạp chí Popular Science. Cô hiện sống ở New York.


Các sinh viên y khoa nghiên cứu một cơ thể đã được hiến tặng cho khoa học tại Đại học Humboldt, Berlin, Đức. Ảnh bởi DPA/PA.


Đó là năm 1993, tôi đang học lớp Bảy khi Marie C Wilson và Gloria Steinem phát động chiến dịch Đưa Con Gái Của Bạn Tới Chỗ Làm, với mong muốn cho những thiếu nữ trẻ như chúng tôi thấy có một thế giới lớn đến thế nào ở ngoài kia, vượt xa hơn bất cứ giới hạn nào về giới tính hay về cơ thể của chúng tôi. Với tôi, nó đã làm đúng được như thế; dù nó đồng thời cũng gieo mầm trong tôi một nỗi ám ảnh khác suốt đời, theo một nghĩa khác hẳn, về cơ thể con người. Bởi trong khi rất nhiều bạn cùng lớp của tôi ngồi bên cạnh phụ huynh của họ trong những văn phòng gọn gàng sạch sẽ; tôi đã dành cả ngày Đưa Con Gái Tới Chỗ Làm đó trong một phòng khám nghiệm tử thi, chăm chú quan sát cha tôi, một bác sĩ nghiên cứu bệnh học và một cựu nhân viên khám nghiệm tử thi của hạt, giải phẫu xác chết của một người đàn ông.

Đó là một bác nông dân tóc đã điểm bạc. Ông được đưa tới tầng hầm để khám nghiệm tử thi trong văn phòng của cha tôi, vẫn mặc nguyên một chiếc sơ mi dài tay và bận chiếc quần rộng kiểu công nhân bằng vải bò, một chi tiết tôi đặc biệt nhớ rõ, nhưng đến giờ nghĩ lại tôi mới thấy nó thật kỳ lạ làm sao. Vài tuần trước, tôi gọi lại cho cha mình và hỏi tại sao bác nông dân đó lại mặc chiếc quần công nhân khi được đưa đến khám nghiệm, và tại sao ngay từ đầu lại cần có một cuộc giải phẫu khám nghiệm tử thi, một điều giờ nghĩ lại tôi cũng thấy thật bất thường. Cha tôi không nhớ chính xác trường hợp đó, một trong quá nhiều các ca khám nghiệm ông đã thực hiện trong suốt những năm qua; nhưng nói khi đó gần như không có bất cứ một nhân chứng nào cho cái chết của ông lão cả; và trong trường hợp đó, bác sĩ của người đàn ông có thể sẽ yêu cầu một cuộc khám nghiệm tử thi, để có thể kết luận chính xác liệu đó là tai nạn, tự sát hay một vụ án mạng. Còn về bộ quần áo thì sao? Điều đó đôi lúc cũng xảy ra. Cuối cùng thì, cũng có đôi lúc người ta chết khi mà vẫn đang ăn diện đẹp đẽ. Qua cuộc điện thoại tôi cũng nhận ra rằng, Cha thậm chí còn không nhớ rằng đã đưa tôi đến phòng khám nghiệm tử thi cùng mình hôm đó. “Cha đã làm thế thật sao?” ông hỏi, cười lớn như không tin được vào điều mình vừa nghe. “Một phòng khám nghiệm tử thi? Con nghiêm túc đấy chứ?”

Với tôi, kỷ niệm đó vẫn còn rõ mồn một. Tôi nhớ được rằng người nông dân đó là tử thi đầu tiên tôi được nhìn thấy trong đời. Tôi nhớ được cảm giác khi đứng nép mình trong góc căn phòng lạnh lẽo, bận bộ trang phục phẫu thuật viên rộng thùng thình của người lớn mà gấu đã xắn lên đến quá mắt cá chân, và yên lặng nhìn cha tôi, cũng ăn diện hệt như vậy, loay hoay với những ống quần của tử thi. Tôi nhớ mình khi đó đã nghĩ cơ thể người chết làm sao lại có thể cong gập được đến như vậy. Tôi có thể thấy chiếc bụng bự béo tốt của bác nông dân đó phơi lên đối diện với trần nhà, trông như cái miệng đang cười, khi cha tôi cuối cùng đã lột sạch được toàn bộ trang phục của ông ta và đặt ông nằm, hoàn toàn trần trụi, lên một chiếc xe cáng kim loại. Tôi nhớ đã nhìn Cha khi ông đẩy chiếc xe cáng tới chính giữa phòng, và rồi chuyển xác người đàn ông lên một bàn giải phẫu, đặt ngay ngắn dưới một ngọn đèn rất sáng, bên dưới có một rãnh thoát chất thải trên sàn. Tôi có thể nghe thấy tiếng cha mình đọc lại từng bước một vào một máy ghi âm trước khi thao tác, bằng một giọng rất làm ăn-sự vụ, và dù tôi không thể nhận ra các từ ngữ, tôi nhớ rằng chúng nghe như thể một thứ ngoại ngữ nào đó vậy. Tôi vẫn còn nhớ những đường cắt dài, như hình chữ Y mà những nhát rạch của con dao mổ đã tạo nên trên ngực người đàn ông. Tôi đặc biệt nhớ rõ đã nhìn cha mình tách khung sườn của người đàn ông ra bằng một chiếc cưa điện cắt xương Stryker, và rồi nhấc gọn nó ra khỏi lồng ngực tử thi như người ta nhấc nắp một chiếc hộp vậy. Tôi còn nhớ mình khi đó đã nghĩ: Kia thực sự là cha mình đấy ư?

Tới cuối cuộc giải phẫu, Cha thọc hẳn tay vào lục lọi khắp bên trong lồng ngực, xung quanh trái tim đã ngừng co bóp của tử thi. Rồi ông xòe bàn tay vẫn đeo găng phẫu thuật của mình ra cho tôi xem hai cục gì đó, lấm lem đẫm đầy máu be bét, và từ tốn giải thích cho tôi nghe sự khác biệt giữa chúng. Một bên là một cục máu nghẽn nhỏ hình thành trước thời điểm tử vong, và bên kia là một khối máu lớn hơn, xuất hiện sau khi nạn nhân đã chết. Ở khối máu đầu tiên, các tế bào máu hòa lẫn với nhau hoàn toàn, và đồng đều về màu sắc bởi vì cục máu này được hình thành trong khi máu trong cơ thể vẫn đang tuần hoàn. Ở trường hợp thứ hai, các tế bào máu đã lắng tách thành hai lớp rõ rệt, một màu vàng, một màu đỏ. Cha tôi nói rằng nếu ông có thể tìm thấy nhiều khối máu trước-khi-chết này hơn nữa, và nếu kính hiển vi cũng xác nhận rằng chúng đã hình thành trước thời điểm nạn nhân tử vong, chúng ta sẽ có thể kết luận chắc chắn rằng người đàn ông này đã qua đời vì một cơn đau tim.

Tôi nhớ là mình không cảm thấy sợ hay không thoải mái, mà chính xác hơn là có chút gì đó như khiếp hãi trước cảnh tượng trước mặt mình. Và trước cả công việc mà cha tôi đã làm nữa. Tới những việc có thể xảy ra với cơ thể bạn một khi bạn đã mất. Và lần đầu tiên trong đời, tôi nhận ra rằng, sau khi tôi chết, một phần của tôi sẽ vẫn ở lại.


Một vài trong số những kỷ niệm rõ nhất của tuổi thơ tôi thường có cảnh cả gia đình chúng tôi quây quần bên bàn ăn tối, lắng nghe những câu chuyện về chủ đề cái chết. Tất nhiên, điều đó nghe có vẻ gì thật bệnh hoạn, nhưng chúng tôi cũng chỉ làm điều mà bao gia đình khác cũng làm bên bàn ăn tối mà thôi, đó là nói về những việc đã qua trong ngày của mỗi người. Và với cha tôi, mỗi ngày đó thường bao gồm những người đang hấp hối, hoặc những người đã chết.

Những câu chuyện ông kể không phải bao giờ cũng là về các ca giải phẫu. Đôi lúc, Cha kể cho chúng tôi nghe việc ông vừa nhận được một khối u lớn mà các bác sĩ phẫu thuật vừa tách bỏ khỏi cơ thể một bệnh nhân, vẫn còn đang để mở trên bàn phẫu thuật của ông ở ngay cuối hành lang, cách đó chỉ mấy mét. Cha sẽ làm lạnh nhanh các khối tế bào đột biến đó, rồi thái nhỏ chúng thành những mặt cắt ngang bằng một dụng cụ nhìn giống như cái máy cắt giăm-bông (deli slicer). Sau đó, ông sẽ bỏ những miếng cắt mỏng tang, gần như trong suốt kia lên một lát thủy tinh, nhuộm chúng trong dung dịch tím rồi hồng, và rồi quan sát chúng kỹ dưới kính hiển vi để tìm kiếm những dấu hiệu chết người của bệnh ung thư. Khi tôi còn nhỏ, cái tên của công đoạn này – giai đoạn làm đông (frozen section) –  khiến tôi hay ngay lập tức liên tưởng tới một cửa hàng bán thực phẩm nào đó.

Đôi lúc, giai đoạn làm đông này có thể giúp cứu tính mạng của người trên bàn phẫu thuật: các bác sĩ bắt được dấu hiệu của các tế bào ung thư từ sớm, trước khi chúng kịp di căn, và loại bỏ được hoàn toàn khối u lập tức, ngay tại đó, ngay lúc đó. Ở những người khác, công đoạn này đôi khi tới quá trễ. Khi kể đến những người này, giọng Cha trầm hẳn xuống.

Các câu chuyện khác là về công đoạn xác định một chứng bệnh rối loạn hiếm gặp nào đó. Đến đây, Cha tả lại công việc phải đào bới khắp các thư tịch y học và sách giáo khoa bệnh học, và rồi so sánh một hình ảnh cấu trúc tế bào nhuộm hai màu tím-hồng này với một hình ảnh cấu trúc tế bào nhuộm hai màu tím-hồng khác, để tìm kiếm từng dấu hiệu khác biệt nhỏ nhất.

Tuy nhiên, câu chuyện ưa thích nhất của tôi lại là những câu chuyện về những vụ giám định pháp y, khi người ta giải phẫu tử thi để điều tra nguyên nhân cái chết – những câu chuyện rất đáng ghê sợ, theo cách đã làm tôi thích đến mê mẩn khi còn nhỏ, nhưng lại mang một ý nghĩa khác hẳn trong tâm trí của tôi, giờ khi đã lớn (mặc dù, với những bộ phim trinh thám pháp y chiếu đầy rẫy trên tivi khắp các khung giờ như hiện nay, tôi đoán rằng việc điều tra những cái chết bất thường giờ đây làm tất cả chúng ta đều mê mẩn cả). Có một câu chuyện Cha kể về một người đàn bà đã bắn chết chồng, viên đạn đã xé đứt động mạch chủ ở cổ nạn nhân được xác định là đạn súng ngắn nòng ổ xoay .357 Magnum; và một câu chuyện có tính chất khuyên răn khác, về một đứa bé mới chập chững biết đi bị một chiếc xe buýt băng qua, nghiến nát toàn bộ cơ thể. Câu chuyện sau đó vẫn còn ám ảnh tôi cho tới tận giờ.

Và tôi đã học được điều này: Khi nghiên cứu về cơ thể con người, không phương pháp thay thế nào có thể sánh bằng một cơ thể thực sự.

Và rồi cả câu chuyện mà tôi luôn đòi Cha kể mỗi lần tôi có bạn đến ăn tối hoặc ngủ lại nữa, mà giờ khiến tôi tự hỏi là tại sao sau đó họ còn muốn quay lại nhà tôi lần nữa. Câu chuyện bắt đầu với cảnh cha tôi bước ra khỏi xe mình, trong một trang trại rộng lớn ở một vùng nông thôn Đông-Bắc bang Kansas, khi ông bất ngờ nghe thấy ba bốn tiếng súng nổ vang trời. Giật nảy mình, ông quay sang ngài cảnh sát trưởng đang đợi để hộ tống ông tới hiện trường, và ông ta lè nhè đáp một cách rất bình thản: “Đừng lo, đừng lo. Họ chỉ đang đuổi nốt mấy con chó cuối cùng đi thôi”.

Cha tôi ở đó để khám nghiệm những gì còn sót lại của một cặp vợ chồng già đã chết, và để giúp rút ra kết luận về điều gì đã xảy ra với họ. Dựa vào thông báo yêu cầu chuyển khỏi nhà (của chủ cho thuê gửi), và chiếc xe đang được chất đồ đạc dang dở, ông kết luận rằng cặp vợ chồng hẳn đã chết trong khi đang chuyển đồ khỏi căn nhà của mình. Tiền sử bệnh tật còn lưu lại của người phụ nữ cho thấy bà không thể đi lại được; những gì còn lại của bà trên chiếc giường cho thấy bà đã chết ở đó. Có lẽ bà đã đợi người chồng tới giúp mình ra xe ô tô sau khi ông ta đã chất xong đồ đạc của họ lên xe. Nhưng thay vào đó, người đàn ông tội nghiệp đã bị một cơn trụy tim đột ngột giữa cái nắng nóng nực của mùa hè. Giả thiết này hoàn toàn hợp lý, dựa vào tiền sử bệnh tật còn lưu lại của người chồng này, và những chiếc va-ly vẫn còn đang đặt trên con đường đầy bụi dẫn từ ngôi nhà ra đến chiếc xe. Không thể đi lại, hay thậm chí là la to báo cho những người hàng xóm gần nhất ở cách đó hàng dặm đường biết, người phụ nữ già cũng đã dần dần kiệt sức và qua đời.
Tất cả những gì còn lại của người đàn ông chỉ là một mảnh xương đầu, từ phần nửa dưới của hộp sọ của ông trở đi. Vậy điều gì đã xảy ra với những phần còn lại của ông ta? Bằng các cuộc thẩm vấn, các nhân viên điều tra của Hạt biết được rằng đôi vợ chồng già này có làm bạn với một bầy chó hoang. Bầy chó đã quen với việc được cho ăn thức ăn thừa từ ngôi nhà nhỏ của cặp vợ chồng họ. Khi hai người chết, lũ thú đói đã quay sang ngấu nghiến chính họ.

Một câu chuyện vô cùng kinh khủng, và đáng buồn, đúng vậy. Nhưng, với tâm trí của một đứa trẻ tại một buổi ngủ qua đêm với bạn bè như tôi, nó chỉ như một câu truyện ma mà thôi. Chỉ có điều còn hay hơn.


Hơn hai mươi năm sau ngày Đưa Con Gái Tới Chỗ Làm đó, và mặc dù tôi vẫn còn trẻ và hoàn toàn khỏe mạnh, tôi vẫn luôn nhớ lại cảnh tượng buổi giải phẫu hôm đó, mỗi khi tôi hình dung đến việc điều gì sẽ xảy ra với cơ thể của mình sau khi tôi chết. Con người chúng ta có một khả năng độc nhất trong việc suy ngẫm về sự tồn tại của chính bản thân; trong việc thấu hiểu sự khác biệt giữa thứ đang tồn tại và cái đã tồn tại, giữa sự sống và cái chết. Chúng ta có thể theo dấu con đường của sự sống mãi cho tới điểm cuối cùng hợp lý nhất của nó: bất kể có bao nhiêu sự chuẩn bị kỹ càng, bao nhiêu những vòng vèo chùng chình, những khúc ngoặt lảng tránh đi nữa, một ngày nào đó con đường cũng sẽ kết thúc. Và một khi tôi đã vượt qua được những nỗi sợ đến tê liệt, cảm giác như của một con thú bị mắc bẫy luôn đi cùng với những suy ngẫm đó; tôi bắt đầu tự hỏi liệu điều gì sẽ xảy đến tiếp theo. Liệu cơ thể của tôi sẽ đi tiếp trên con đường nào, khi bất kể những cái gì làm nên phần “Tôi” trong tôi đã biến mất?

Tôi không có ý nói đến vấn đề này theo một khía cạnh tâm linh nào đó. Rất nhiều người đi đến được trạng thái chấp nhận cái chết bằng lời hứa hẹn rằng họ sẽ sống tiếp trong một thế giới bên kia, hoặc quay trở lại qua sự đầu thai, hoặc tái sinh, nhưng các việc đó không phải là điều tôi tin. Tôi cũng không chia sẻ quan điểm với các lão khoa muốn tìm ra phương thuốc bất tử đẩy lùi tận gốc tuổi già, hay những người lạc quan vào tương lai vẫn đang kiên nhẫn chờ đợi thời điểm khi trí tuệ nhân tạo có thể trợ giúp con người đạt được những điều không tưởng. Với tôi, cả hai chỉ là những cách khác để lảng tránh cái chết mà thôi, chỉ có điều lần này là dưới danh nghĩa của khoa học, thay vì tôn giáo. Điều tôi đang nói tới ở đây là thứ gì sẽ xảy đến với cái vỏ xác thịt, với phần thân thể vật chất còn lại của tôi sau khi tôi mất, khi tôi đã không còn. Tôi muốn có quyền kiểm soát việc cơ thể của mình sẽ được đưa đến đâu, và ai sẽ làm gì với nó, kể cả khi tôi đã chết. Tôi thấy ít nhiều được an ủi khi biết rằng mình cũng có tiếng nói trong chuyện này.

Ý nghĩ về việc ngay lập tức bị gói kín trong một cái quan tài đắt tiền, hay được tan ra tro bụi bằng hỏa táng không có chút gì hấp dẫn tôi. Tôi hiểu rằng những truyền thống văn hóa lâu đời đó góp phần an ủi những người còn sống, nhưng với tôi thì cơ thể của tôi sẽ chỉ đều bị phí phạm trong cả hai trường hợp. Trước khi nó tới được chỗ an nghỉ cuối cùng, tôi muốn cơ thể của mình phải làm được điều gì đó có ích hơn cho thế giới này.

Để làm được điều đó, tôi cần nghĩ tới một cách để khiến cho cái chết của tôi có thể làm cuộc sống của những người còn sống tốt đẹp hơn. Một trong những lựa chọn là hiến những cơ quan nội tạng có thể dùng được của tôi cho những người cần đến chúng: giác mạc cho những người khiếm thị, da cho những người bị bỏng nặng, và rất nhiều các cơ quan nội tạng, từ tim đến thận, đến phổi, cho những người mắc các bệnh nghiêm trọng khác. Tôi đã làm một người hiến nội tạng từ rất lâu tôi không nhớ được nổi nữa rồi; nó được in cả trên bằng lái xe của tôi, bên dưới một trái tim vẽ bằng màu đỏ. Nhưng gần đây, khi tôi bắt đầu nghĩ đến nhiều hơn về cái chết của mình, tôi đã bắt đầu tự hỏi liệu, với tôi, đây đã phải là cách hiến có ý nghĩa nhất hay chưa. Tình cờ, bằng lái xe của tôi lại sắp đến hạn phải làm mới vào cuối năm nay.

Gần đây có viết một bài báo ngắn, giới thiệu về những cách khác nhau mà một thân xác hiến-toàn bộ cho khoa học có thể được dùng trong nghiên cứu và giáo dục y khoa như thế nào. Khi tôi phỏng vấn các nhà khoa học và bác sĩ liên quan đến công việc, tôi nhận ra rằng những câu hỏi của tôi về những thân xác vô danh họ sử dụng không chỉ còn là vì mục đích cho bài báo của tôi nữa. Thực sự là khi đó, tôi đang hỏi về việc cơ thể mình sẽ được sử dụng như thế nào, nếu một ngày tôi quyết định sẽ hiến xác mình cho khoa học.

Những người từng trải nghiệm nó đã kể với tôi rằng, mối quan hệ giữa các sinh viên y khoa và cái xác đầu tiên họ thực tập mổ là một mối quan hệ đặc biệt.

Và tôi đã học được điều này: Khi nghiên cứu về cơ thể con người, không phương pháp thay thế nào có thể sánh bằng một cơ thể thực sự. Có những phương pháp khác – mô hình ba chiều trên máy tính và những hình nhân để thí nghiệm chịu va đập trong các cuộc thử nghiệm là một vài ví dụ. Nhưng không gì thay thế được một cơ thể thật, và, trên thực tế, chính cả hai thứ này cũng đều được xây dựng và lập trình với những dữ liệu thu thập được từ những xác người thật trước đây. Nếu không có dữ liệu từ những cơ thể thật sự, với sự phức tạp về giải phẫu của chúng, không một phương pháp thay thế nào có thể tồn tại.

Không bao giờ có đủ những thân xác hiến-toàn bộ cho khoa học. Vào bất cứ năm nào, các nhà khoa học cũng vẫn có thể xoay sở đủ với những gì mà họ có, nhưng họ luôn luôn có thể dùng đến nhiều hơn. Nhưng có nhiều trở ngại: bản thân người hiến hoặc gia đình còn sống của họ phải đồng ý với việc hiến, những thủ tục pháp lý cần thiết cần phải được xây dựng trên mỗi khu vực hoặc mỗi quốc gia, và trong một số trường hợp, có những cơ thể lại không thể phù hợp với tất cả các ngành nghiên cứu nữa. Cũng không phải mọi chương trình hiến tặng cơ thể đều đúng như lời họ quảng cáo, vậy nên cách tốt nhất để đảm bảo rằng cơ thể tôi sẽ được đưa vào nghiên cứu là phải hiến tặng nó cho một ủy ban giải phẫu quốc gia, hoặc một trường y.

Rất nhiều ngành nghiên cứu cần đến những cơ thể được hiến tặng. Các nhà khoa học nghiên cứu về cơ chế sinh học của thương tật chẳng hạn, muốn hiểu rõ hơn cách cơ thể bị tổn thương, để từ đó họ có thể giúp nghiên cứu những cách mới làm giảm chấn thương trong các hoạt động khác nhau của con người. Họ thiết kế các thí nghiệm điều khiển từ xa để hiểu rõ hơn mức độ thương tổn tối đa một cơ thể con người có thể chịu đựng. Sau đó, sau khi đã chuyển hết những số liệu này lên một mô hình trên máy tính, hoặc vào một hình nhân thí nghiệm, họ tiếp tục kiểm tra và hoàn thiện dần những thiết bị giúp chúng ta được an toàn hàng ngày.

Cơ thể tôi, như tôi đã được biết, có thể giúp để cải tiến đai an toàn trên xe hơi, hoặc ghế ngồi trên những toa tàu hỏa. Não bộ của tôi có thể giúp các nhà thiết kế tạo ra những mẫu mũ bảo hiểm mới làm giảm tối đa chấn thương não mà một vận động viên bóng bầu dục Mỹ có thể chịu sau một cú húc mạnh của đối thủ, hoặc giúp một người lính có thể sống sót khi bị hất văng đi bởi sóng chấn động của một vụ nổ bom. Khi các nghiên cứu đã hoàn thành, nếu gia đình tôi muốn, họ có thể được nhận phần cơ thể còn lại đã được hỏa táng của tôi (và trong trường hợp này, tôi sẽ không ngại nếu tro cốt của tôi được rắc ở những nơi tôi yêu quý). Nếu không, tôi có thể sẽ được vinh danh bên cạnh những người hiến tặng cơ thể khác bằng một bia đá, một thân cây, hay một buổi lễ trang trọng hàng năm.

Các nhà khoa học pháp y cũng vậy, họ cũng sử dụng những thân xác được hiến tặng cho nghiên cứu của mình. Một số trường đại học nhận các cơ thể hiến tặng và chôn nó xuống đất, hoặc đặt vào trong một khu rừng vắng vẻ. Sau đó các nhà khoa học sẽ ghi lại thời gian cần thiết để ruồi nhặng, giòi bọ, và các loài ăn xác thối khác kéo đến và biến cơ thể chỉ còn lại bộ xương. Cách này, theo tôi nghĩ, là một dạng khác của sự tái sinh – trở thành một phần của hệ sinh thái của một cánh đồng hoặc một khu rừng. Nó nghe có vẻ như là một kết thúc bi thảm, nhưng những dữ liệu mà nó mang lại có thể giúp các nhà khoa học pháp y xác định thời điểm một người chết và những thương tổn nào họ có thể đã phải chịu, điều mà đến lượt nó lại có thể giúp cho các nhà thi hành luật pháp giải quyết được một vụ án giết người.

Nếu tôi lựa chọn con đường này, cơ thể tôi có thể sẽ được dùng để tái dựng lại một hiện trường vụ án cụ thể – được treo lơ lửng trong một cánh rừng, hoặc được nhồi trong cốp một chiếc xe hơi – những việc có thể giúp các nhà pháp y giải quyết một vụ án, giúp cảnh sát mang kẻ giết người ra chịu tội trước công lý, cũng hệt như cách cha tôi đã từng giúp lật tẩy những tội ác chết người. Có lẽ điều này sẽ giúp an ủi phần nào gia đình vẫn còn đau khổ của nạn nhân. Sau đó, bộ xương của tôi có sẽ được an nghỉ trong một hộp kính trong bộ sưu tập của phòng nghiên cứu pháp y, đôi lúc sẽ lại được dùng lại trong một nghiên cứu về sự lão hóa của xương.

Đây đều là những di sản đáng để lại, nhưng còn một lựa chọn khác nữa cho việc hiến-toàn bộ thân xác, một truyền thống lâu đời của ngành đào tạo y khoa, mà nghe có vẻ phù hợp với tôi hơn. Mọi sinh viên y khoa năm nhất đều phải học một khóa về giải phẫu học mà trong đó, họ thực tập giải phẫu một cơ thể người đã chết. Đây chính là bệnh nhân đầu tiên của họ. Đó có thể tử thi đầu tiên trong đời họ từng được nhìn thấy, hay chạm tay tới. Khi họ bước chân vào căn phòng giải phẫu, họ có thể thấy đôi ba – hoặc một vài chục – những cơ thể khác nhau, mỗi cái là một ví dụ cụ thể, sinh động cho sự đa dạng đến vô vàn của kích thước và hình dáng cơ thể con người.

Những người từng trải nghiệm nó đã kể với tôi rằng, mối quan hệ giữa các sinh viên y khoa và cái xác đầu tiên họ thực tập mổ là một mối quan hệ đặc biệt. Tử thi sẽ cung cấp cho họ những kiến thức mà các sinh viên sẽ không thể nào có được bằng những cách khác; người sinh viên thì vô cùng choáng ngợp và biết ơn vì món quà. Một bác sĩ đa khoa tôi từng phỏng vấn đã tâm sự với tôi rằng: “Bạn có thể học được các kiến thức, nhưng khi bước ra khỏi quá trình đó, bạn sẽ bước ra với sự biết ơn, với một niềm kính trọng tuyệt đối với khối cấu trúc sinh học kỳ diệu ở ngay trước mắt bạn kia. Và bạn sẽ bắt đầu trân trọng cơ thể con người theo một cách hoàn toàn khác.”

Trong viễn cảnh này, nếu tôi lựa chọn nó, cơ thể tôi sẽ có thể dạy cho một người bác sĩ tương lai nền tảng quyết định của kỹ thuật hút dịch tủy xương sống (spinal tap), hay cách cắt bỏ những phần ruột thừa bị viêm nhiễm. Một bác sĩ phẫu thuật có thể học cách giải phẫu những hệ thần kinh tinh vi nơi hai bàn tay của tôi. Hay, có lẽ, một bác sĩ nghiên cứu bệnh học tương lai có thể nhờ tôi mà nhận ra sự khác biệt giữa những cục máu đông hình thành trước, và sau thời điểm tử vong.

Đó là một quyết định rất lớn, để chọn xem bạn sẽ đi đến đâu sau khi bạn đã mất, và là một quyết định vô cùng cá nhân. Rất nhiều người sẽ không muốn thậm chí bận tâm nghĩ đến nó, một số người khác còn không được phép tự mình quyết định một chuyện như vậy. Với tôi, tôi sẽ chọn lấy một vai trò chủ động, và tôi đủ may mắn để có được một cơ hội như thế. Tôi vẫn chưa đi đến quyết định cuối cùng, nhưng có một mẫu khai đăng ký hiến cơ thể cho một trường y khoa đã được lưu sẵn trên màn hình máy tính của tôi. Có lẽ, cho đến 31 tháng 12 cuối năm nay – ngày mà bằng lái xe của tôi hết hạn, và cũng là sinh nhật tôi – tôi sẽ điền mẫu đăng ký đó, và bỏ nó vào hòm thư bưu điện.



Xuất bản ngày 04 tháng Mười, năm 2013
Chủ đề bài đăng: Cái chết, Y khoa, Nghi thức.


Người dịch: Nguyễn Tiến Đạt (sutucon)
Dịch và chỉnh sửa xong lúc 13h26, ngày 25/12/2013