Thứ Tư, 25 tháng 12, 2013

Nếu được chọn, tôi muốn được giải phẫu.


Hiện nay đang không có đủ những người muốn hiến toàn-bộ thân xác cho khoa học. Tại sao mọi người lại không muốn cái chết của mình có thể giúp ích cho những người còn sống?
– – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – 

Tác giả: Brooke Borel



Brooke Borel là một cây bút về khoa học. Những bài viết của cô đã được xuất hiện trên các tạp chí Slate, Discover, và BBC Future, và cô cũng là một biên tập viên có đóng góp tích cực cho tạp chí Popular Science. Cô hiện sống ở New York.


Các sinh viên y khoa nghiên cứu một cơ thể đã được hiến tặng cho khoa học tại Đại học Humboldt, Berlin, Đức. Ảnh bởi DPA/PA.


Đó là năm 1993, tôi đang học lớp Bảy khi Marie C Wilson và Gloria Steinem phát động chiến dịch Đưa Con Gái Của Bạn Tới Chỗ Làm, với mong muốn cho những thiếu nữ trẻ như chúng tôi thấy có một thế giới lớn đến thế nào ở ngoài kia, vượt xa hơn bất cứ giới hạn nào về giới tính hay về cơ thể của chúng tôi. Với tôi, nó đã làm đúng được như thế; dù nó đồng thời cũng gieo mầm trong tôi một nỗi ám ảnh khác suốt đời, theo một nghĩa khác hẳn, về cơ thể con người. Bởi trong khi rất nhiều bạn cùng lớp của tôi ngồi bên cạnh phụ huynh của họ trong những văn phòng gọn gàng sạch sẽ; tôi đã dành cả ngày Đưa Con Gái Tới Chỗ Làm đó trong một phòng khám nghiệm tử thi, chăm chú quan sát cha tôi, một bác sĩ nghiên cứu bệnh học và một cựu nhân viên khám nghiệm tử thi của hạt, giải phẫu xác chết của một người đàn ông.

Đó là một bác nông dân tóc đã điểm bạc. Ông được đưa tới tầng hầm để khám nghiệm tử thi trong văn phòng của cha tôi, vẫn mặc nguyên một chiếc sơ mi dài tay và bận chiếc quần rộng kiểu công nhân bằng vải bò, một chi tiết tôi đặc biệt nhớ rõ, nhưng đến giờ nghĩ lại tôi mới thấy nó thật kỳ lạ làm sao. Vài tuần trước, tôi gọi lại cho cha mình và hỏi tại sao bác nông dân đó lại mặc chiếc quần công nhân khi được đưa đến khám nghiệm, và tại sao ngay từ đầu lại cần có một cuộc giải phẫu khám nghiệm tử thi, một điều giờ nghĩ lại tôi cũng thấy thật bất thường. Cha tôi không nhớ chính xác trường hợp đó, một trong quá nhiều các ca khám nghiệm ông đã thực hiện trong suốt những năm qua; nhưng nói khi đó gần như không có bất cứ một nhân chứng nào cho cái chết của ông lão cả; và trong trường hợp đó, bác sĩ của người đàn ông có thể sẽ yêu cầu một cuộc khám nghiệm tử thi, để có thể kết luận chính xác liệu đó là tai nạn, tự sát hay một vụ án mạng. Còn về bộ quần áo thì sao? Điều đó đôi lúc cũng xảy ra. Cuối cùng thì, cũng có đôi lúc người ta chết khi mà vẫn đang ăn diện đẹp đẽ. Qua cuộc điện thoại tôi cũng nhận ra rằng, Cha thậm chí còn không nhớ rằng đã đưa tôi đến phòng khám nghiệm tử thi cùng mình hôm đó. “Cha đã làm thế thật sao?” ông hỏi, cười lớn như không tin được vào điều mình vừa nghe. “Một phòng khám nghiệm tử thi? Con nghiêm túc đấy chứ?”

Với tôi, kỷ niệm đó vẫn còn rõ mồn một. Tôi nhớ được rằng người nông dân đó là tử thi đầu tiên tôi được nhìn thấy trong đời. Tôi nhớ được cảm giác khi đứng nép mình trong góc căn phòng lạnh lẽo, bận bộ trang phục phẫu thuật viên rộng thùng thình của người lớn mà gấu đã xắn lên đến quá mắt cá chân, và yên lặng nhìn cha tôi, cũng ăn diện hệt như vậy, loay hoay với những ống quần của tử thi. Tôi nhớ mình khi đó đã nghĩ cơ thể người chết làm sao lại có thể cong gập được đến như vậy. Tôi có thể thấy chiếc bụng bự béo tốt của bác nông dân đó phơi lên đối diện với trần nhà, trông như cái miệng đang cười, khi cha tôi cuối cùng đã lột sạch được toàn bộ trang phục của ông ta và đặt ông nằm, hoàn toàn trần trụi, lên một chiếc xe cáng kim loại. Tôi nhớ đã nhìn Cha khi ông đẩy chiếc xe cáng tới chính giữa phòng, và rồi chuyển xác người đàn ông lên một bàn giải phẫu, đặt ngay ngắn dưới một ngọn đèn rất sáng, bên dưới có một rãnh thoát chất thải trên sàn. Tôi có thể nghe thấy tiếng cha mình đọc lại từng bước một vào một máy ghi âm trước khi thao tác, bằng một giọng rất làm ăn-sự vụ, và dù tôi không thể nhận ra các từ ngữ, tôi nhớ rằng chúng nghe như thể một thứ ngoại ngữ nào đó vậy. Tôi vẫn còn nhớ những đường cắt dài, như hình chữ Y mà những nhát rạch của con dao mổ đã tạo nên trên ngực người đàn ông. Tôi đặc biệt nhớ rõ đã nhìn cha mình tách khung sườn của người đàn ông ra bằng một chiếc cưa điện cắt xương Stryker, và rồi nhấc gọn nó ra khỏi lồng ngực tử thi như người ta nhấc nắp một chiếc hộp vậy. Tôi còn nhớ mình khi đó đã nghĩ: Kia thực sự là cha mình đấy ư?

Tới cuối cuộc giải phẫu, Cha thọc hẳn tay vào lục lọi khắp bên trong lồng ngực, xung quanh trái tim đã ngừng co bóp của tử thi. Rồi ông xòe bàn tay vẫn đeo găng phẫu thuật của mình ra cho tôi xem hai cục gì đó, lấm lem đẫm đầy máu be bét, và từ tốn giải thích cho tôi nghe sự khác biệt giữa chúng. Một bên là một cục máu nghẽn nhỏ hình thành trước thời điểm tử vong, và bên kia là một khối máu lớn hơn, xuất hiện sau khi nạn nhân đã chết. Ở khối máu đầu tiên, các tế bào máu hòa lẫn với nhau hoàn toàn, và đồng đều về màu sắc bởi vì cục máu này được hình thành trong khi máu trong cơ thể vẫn đang tuần hoàn. Ở trường hợp thứ hai, các tế bào máu đã lắng tách thành hai lớp rõ rệt, một màu vàng, một màu đỏ. Cha tôi nói rằng nếu ông có thể tìm thấy nhiều khối máu trước-khi-chết này hơn nữa, và nếu kính hiển vi cũng xác nhận rằng chúng đã hình thành trước thời điểm nạn nhân tử vong, chúng ta sẽ có thể kết luận chắc chắn rằng người đàn ông này đã qua đời vì một cơn đau tim.

Tôi nhớ là mình không cảm thấy sợ hay không thoải mái, mà chính xác hơn là có chút gì đó như khiếp hãi trước cảnh tượng trước mặt mình. Và trước cả công việc mà cha tôi đã làm nữa. Tới những việc có thể xảy ra với cơ thể bạn một khi bạn đã mất. Và lần đầu tiên trong đời, tôi nhận ra rằng, sau khi tôi chết, một phần của tôi sẽ vẫn ở lại.


Một vài trong số những kỷ niệm rõ nhất của tuổi thơ tôi thường có cảnh cả gia đình chúng tôi quây quần bên bàn ăn tối, lắng nghe những câu chuyện về chủ đề cái chết. Tất nhiên, điều đó nghe có vẻ gì thật bệnh hoạn, nhưng chúng tôi cũng chỉ làm điều mà bao gia đình khác cũng làm bên bàn ăn tối mà thôi, đó là nói về những việc đã qua trong ngày của mỗi người. Và với cha tôi, mỗi ngày đó thường bao gồm những người đang hấp hối, hoặc những người đã chết.

Những câu chuyện ông kể không phải bao giờ cũng là về các ca giải phẫu. Đôi lúc, Cha kể cho chúng tôi nghe việc ông vừa nhận được một khối u lớn mà các bác sĩ phẫu thuật vừa tách bỏ khỏi cơ thể một bệnh nhân, vẫn còn đang để mở trên bàn phẫu thuật của ông ở ngay cuối hành lang, cách đó chỉ mấy mét. Cha sẽ làm lạnh nhanh các khối tế bào đột biến đó, rồi thái nhỏ chúng thành những mặt cắt ngang bằng một dụng cụ nhìn giống như cái máy cắt giăm-bông (deli slicer). Sau đó, ông sẽ bỏ những miếng cắt mỏng tang, gần như trong suốt kia lên một lát thủy tinh, nhuộm chúng trong dung dịch tím rồi hồng, và rồi quan sát chúng kỹ dưới kính hiển vi để tìm kiếm những dấu hiệu chết người của bệnh ung thư. Khi tôi còn nhỏ, cái tên của công đoạn này – giai đoạn làm đông (frozen section) –  khiến tôi hay ngay lập tức liên tưởng tới một cửa hàng bán thực phẩm nào đó.

Đôi lúc, giai đoạn làm đông này có thể giúp cứu tính mạng của người trên bàn phẫu thuật: các bác sĩ bắt được dấu hiệu của các tế bào ung thư từ sớm, trước khi chúng kịp di căn, và loại bỏ được hoàn toàn khối u lập tức, ngay tại đó, ngay lúc đó. Ở những người khác, công đoạn này đôi khi tới quá trễ. Khi kể đến những người này, giọng Cha trầm hẳn xuống.

Các câu chuyện khác là về công đoạn xác định một chứng bệnh rối loạn hiếm gặp nào đó. Đến đây, Cha tả lại công việc phải đào bới khắp các thư tịch y học và sách giáo khoa bệnh học, và rồi so sánh một hình ảnh cấu trúc tế bào nhuộm hai màu tím-hồng này với một hình ảnh cấu trúc tế bào nhuộm hai màu tím-hồng khác, để tìm kiếm từng dấu hiệu khác biệt nhỏ nhất.

Tuy nhiên, câu chuyện ưa thích nhất của tôi lại là những câu chuyện về những vụ giám định pháp y, khi người ta giải phẫu tử thi để điều tra nguyên nhân cái chết – những câu chuyện rất đáng ghê sợ, theo cách đã làm tôi thích đến mê mẩn khi còn nhỏ, nhưng lại mang một ý nghĩa khác hẳn trong tâm trí của tôi, giờ khi đã lớn (mặc dù, với những bộ phim trinh thám pháp y chiếu đầy rẫy trên tivi khắp các khung giờ như hiện nay, tôi đoán rằng việc điều tra những cái chết bất thường giờ đây làm tất cả chúng ta đều mê mẩn cả). Có một câu chuyện Cha kể về một người đàn bà đã bắn chết chồng, viên đạn đã xé đứt động mạch chủ ở cổ nạn nhân được xác định là đạn súng ngắn nòng ổ xoay .357 Magnum; và một câu chuyện có tính chất khuyên răn khác, về một đứa bé mới chập chững biết đi bị một chiếc xe buýt băng qua, nghiến nát toàn bộ cơ thể. Câu chuyện sau đó vẫn còn ám ảnh tôi cho tới tận giờ.

Và tôi đã học được điều này: Khi nghiên cứu về cơ thể con người, không phương pháp thay thế nào có thể sánh bằng một cơ thể thực sự.

Và rồi cả câu chuyện mà tôi luôn đòi Cha kể mỗi lần tôi có bạn đến ăn tối hoặc ngủ lại nữa, mà giờ khiến tôi tự hỏi là tại sao sau đó họ còn muốn quay lại nhà tôi lần nữa. Câu chuyện bắt đầu với cảnh cha tôi bước ra khỏi xe mình, trong một trang trại rộng lớn ở một vùng nông thôn Đông-Bắc bang Kansas, khi ông bất ngờ nghe thấy ba bốn tiếng súng nổ vang trời. Giật nảy mình, ông quay sang ngài cảnh sát trưởng đang đợi để hộ tống ông tới hiện trường, và ông ta lè nhè đáp một cách rất bình thản: “Đừng lo, đừng lo. Họ chỉ đang đuổi nốt mấy con chó cuối cùng đi thôi”.

Cha tôi ở đó để khám nghiệm những gì còn sót lại của một cặp vợ chồng già đã chết, và để giúp rút ra kết luận về điều gì đã xảy ra với họ. Dựa vào thông báo yêu cầu chuyển khỏi nhà (của chủ cho thuê gửi), và chiếc xe đang được chất đồ đạc dang dở, ông kết luận rằng cặp vợ chồng hẳn đã chết trong khi đang chuyển đồ khỏi căn nhà của mình. Tiền sử bệnh tật còn lưu lại của người phụ nữ cho thấy bà không thể đi lại được; những gì còn lại của bà trên chiếc giường cho thấy bà đã chết ở đó. Có lẽ bà đã đợi người chồng tới giúp mình ra xe ô tô sau khi ông ta đã chất xong đồ đạc của họ lên xe. Nhưng thay vào đó, người đàn ông tội nghiệp đã bị một cơn trụy tim đột ngột giữa cái nắng nóng nực của mùa hè. Giả thiết này hoàn toàn hợp lý, dựa vào tiền sử bệnh tật còn lưu lại của người chồng này, và những chiếc va-ly vẫn còn đang đặt trên con đường đầy bụi dẫn từ ngôi nhà ra đến chiếc xe. Không thể đi lại, hay thậm chí là la to báo cho những người hàng xóm gần nhất ở cách đó hàng dặm đường biết, người phụ nữ già cũng đã dần dần kiệt sức và qua đời.
Tất cả những gì còn lại của người đàn ông chỉ là một mảnh xương đầu, từ phần nửa dưới của hộp sọ của ông trở đi. Vậy điều gì đã xảy ra với những phần còn lại của ông ta? Bằng các cuộc thẩm vấn, các nhân viên điều tra của Hạt biết được rằng đôi vợ chồng già này có làm bạn với một bầy chó hoang. Bầy chó đã quen với việc được cho ăn thức ăn thừa từ ngôi nhà nhỏ của cặp vợ chồng họ. Khi hai người chết, lũ thú đói đã quay sang ngấu nghiến chính họ.

Một câu chuyện vô cùng kinh khủng, và đáng buồn, đúng vậy. Nhưng, với tâm trí của một đứa trẻ tại một buổi ngủ qua đêm với bạn bè như tôi, nó chỉ như một câu truyện ma mà thôi. Chỉ có điều còn hay hơn.


Hơn hai mươi năm sau ngày Đưa Con Gái Tới Chỗ Làm đó, và mặc dù tôi vẫn còn trẻ và hoàn toàn khỏe mạnh, tôi vẫn luôn nhớ lại cảnh tượng buổi giải phẫu hôm đó, mỗi khi tôi hình dung đến việc điều gì sẽ xảy ra với cơ thể của mình sau khi tôi chết. Con người chúng ta có một khả năng độc nhất trong việc suy ngẫm về sự tồn tại của chính bản thân; trong việc thấu hiểu sự khác biệt giữa thứ đang tồn tại và cái đã tồn tại, giữa sự sống và cái chết. Chúng ta có thể theo dấu con đường của sự sống mãi cho tới điểm cuối cùng hợp lý nhất của nó: bất kể có bao nhiêu sự chuẩn bị kỹ càng, bao nhiêu những vòng vèo chùng chình, những khúc ngoặt lảng tránh đi nữa, một ngày nào đó con đường cũng sẽ kết thúc. Và một khi tôi đã vượt qua được những nỗi sợ đến tê liệt, cảm giác như của một con thú bị mắc bẫy luôn đi cùng với những suy ngẫm đó; tôi bắt đầu tự hỏi liệu điều gì sẽ xảy đến tiếp theo. Liệu cơ thể của tôi sẽ đi tiếp trên con đường nào, khi bất kể những cái gì làm nên phần “Tôi” trong tôi đã biến mất?

Tôi không có ý nói đến vấn đề này theo một khía cạnh tâm linh nào đó. Rất nhiều người đi đến được trạng thái chấp nhận cái chết bằng lời hứa hẹn rằng họ sẽ sống tiếp trong một thế giới bên kia, hoặc quay trở lại qua sự đầu thai, hoặc tái sinh, nhưng các việc đó không phải là điều tôi tin. Tôi cũng không chia sẻ quan điểm với các lão khoa muốn tìm ra phương thuốc bất tử đẩy lùi tận gốc tuổi già, hay những người lạc quan vào tương lai vẫn đang kiên nhẫn chờ đợi thời điểm khi trí tuệ nhân tạo có thể trợ giúp con người đạt được những điều không tưởng. Với tôi, cả hai chỉ là những cách khác để lảng tránh cái chết mà thôi, chỉ có điều lần này là dưới danh nghĩa của khoa học, thay vì tôn giáo. Điều tôi đang nói tới ở đây là thứ gì sẽ xảy đến với cái vỏ xác thịt, với phần thân thể vật chất còn lại của tôi sau khi tôi mất, khi tôi đã không còn. Tôi muốn có quyền kiểm soát việc cơ thể của mình sẽ được đưa đến đâu, và ai sẽ làm gì với nó, kể cả khi tôi đã chết. Tôi thấy ít nhiều được an ủi khi biết rằng mình cũng có tiếng nói trong chuyện này.

Ý nghĩ về việc ngay lập tức bị gói kín trong một cái quan tài đắt tiền, hay được tan ra tro bụi bằng hỏa táng không có chút gì hấp dẫn tôi. Tôi hiểu rằng những truyền thống văn hóa lâu đời đó góp phần an ủi những người còn sống, nhưng với tôi thì cơ thể của tôi sẽ chỉ đều bị phí phạm trong cả hai trường hợp. Trước khi nó tới được chỗ an nghỉ cuối cùng, tôi muốn cơ thể của mình phải làm được điều gì đó có ích hơn cho thế giới này.

Để làm được điều đó, tôi cần nghĩ tới một cách để khiến cho cái chết của tôi có thể làm cuộc sống của những người còn sống tốt đẹp hơn. Một trong những lựa chọn là hiến những cơ quan nội tạng có thể dùng được của tôi cho những người cần đến chúng: giác mạc cho những người khiếm thị, da cho những người bị bỏng nặng, và rất nhiều các cơ quan nội tạng, từ tim đến thận, đến phổi, cho những người mắc các bệnh nghiêm trọng khác. Tôi đã làm một người hiến nội tạng từ rất lâu tôi không nhớ được nổi nữa rồi; nó được in cả trên bằng lái xe của tôi, bên dưới một trái tim vẽ bằng màu đỏ. Nhưng gần đây, khi tôi bắt đầu nghĩ đến nhiều hơn về cái chết của mình, tôi đã bắt đầu tự hỏi liệu, với tôi, đây đã phải là cách hiến có ý nghĩa nhất hay chưa. Tình cờ, bằng lái xe của tôi lại sắp đến hạn phải làm mới vào cuối năm nay.

Gần đây có viết một bài báo ngắn, giới thiệu về những cách khác nhau mà một thân xác hiến-toàn bộ cho khoa học có thể được dùng trong nghiên cứu và giáo dục y khoa như thế nào. Khi tôi phỏng vấn các nhà khoa học và bác sĩ liên quan đến công việc, tôi nhận ra rằng những câu hỏi của tôi về những thân xác vô danh họ sử dụng không chỉ còn là vì mục đích cho bài báo của tôi nữa. Thực sự là khi đó, tôi đang hỏi về việc cơ thể mình sẽ được sử dụng như thế nào, nếu một ngày tôi quyết định sẽ hiến xác mình cho khoa học.

Những người từng trải nghiệm nó đã kể với tôi rằng, mối quan hệ giữa các sinh viên y khoa và cái xác đầu tiên họ thực tập mổ là một mối quan hệ đặc biệt.

Và tôi đã học được điều này: Khi nghiên cứu về cơ thể con người, không phương pháp thay thế nào có thể sánh bằng một cơ thể thực sự. Có những phương pháp khác – mô hình ba chiều trên máy tính và những hình nhân để thí nghiệm chịu va đập trong các cuộc thử nghiệm là một vài ví dụ. Nhưng không gì thay thế được một cơ thể thật, và, trên thực tế, chính cả hai thứ này cũng đều được xây dựng và lập trình với những dữ liệu thu thập được từ những xác người thật trước đây. Nếu không có dữ liệu từ những cơ thể thật sự, với sự phức tạp về giải phẫu của chúng, không một phương pháp thay thế nào có thể tồn tại.

Không bao giờ có đủ những thân xác hiến-toàn bộ cho khoa học. Vào bất cứ năm nào, các nhà khoa học cũng vẫn có thể xoay sở đủ với những gì mà họ có, nhưng họ luôn luôn có thể dùng đến nhiều hơn. Nhưng có nhiều trở ngại: bản thân người hiến hoặc gia đình còn sống của họ phải đồng ý với việc hiến, những thủ tục pháp lý cần thiết cần phải được xây dựng trên mỗi khu vực hoặc mỗi quốc gia, và trong một số trường hợp, có những cơ thể lại không thể phù hợp với tất cả các ngành nghiên cứu nữa. Cũng không phải mọi chương trình hiến tặng cơ thể đều đúng như lời họ quảng cáo, vậy nên cách tốt nhất để đảm bảo rằng cơ thể tôi sẽ được đưa vào nghiên cứu là phải hiến tặng nó cho một ủy ban giải phẫu quốc gia, hoặc một trường y.

Rất nhiều ngành nghiên cứu cần đến những cơ thể được hiến tặng. Các nhà khoa học nghiên cứu về cơ chế sinh học của thương tật chẳng hạn, muốn hiểu rõ hơn cách cơ thể bị tổn thương, để từ đó họ có thể giúp nghiên cứu những cách mới làm giảm chấn thương trong các hoạt động khác nhau của con người. Họ thiết kế các thí nghiệm điều khiển từ xa để hiểu rõ hơn mức độ thương tổn tối đa một cơ thể con người có thể chịu đựng. Sau đó, sau khi đã chuyển hết những số liệu này lên một mô hình trên máy tính, hoặc vào một hình nhân thí nghiệm, họ tiếp tục kiểm tra và hoàn thiện dần những thiết bị giúp chúng ta được an toàn hàng ngày.

Cơ thể tôi, như tôi đã được biết, có thể giúp để cải tiến đai an toàn trên xe hơi, hoặc ghế ngồi trên những toa tàu hỏa. Não bộ của tôi có thể giúp các nhà thiết kế tạo ra những mẫu mũ bảo hiểm mới làm giảm tối đa chấn thương não mà một vận động viên bóng bầu dục Mỹ có thể chịu sau một cú húc mạnh của đối thủ, hoặc giúp một người lính có thể sống sót khi bị hất văng đi bởi sóng chấn động của một vụ nổ bom. Khi các nghiên cứu đã hoàn thành, nếu gia đình tôi muốn, họ có thể được nhận phần cơ thể còn lại đã được hỏa táng của tôi (và trong trường hợp này, tôi sẽ không ngại nếu tro cốt của tôi được rắc ở những nơi tôi yêu quý). Nếu không, tôi có thể sẽ được vinh danh bên cạnh những người hiến tặng cơ thể khác bằng một bia đá, một thân cây, hay một buổi lễ trang trọng hàng năm.

Các nhà khoa học pháp y cũng vậy, họ cũng sử dụng những thân xác được hiến tặng cho nghiên cứu của mình. Một số trường đại học nhận các cơ thể hiến tặng và chôn nó xuống đất, hoặc đặt vào trong một khu rừng vắng vẻ. Sau đó các nhà khoa học sẽ ghi lại thời gian cần thiết để ruồi nhặng, giòi bọ, và các loài ăn xác thối khác kéo đến và biến cơ thể chỉ còn lại bộ xương. Cách này, theo tôi nghĩ, là một dạng khác của sự tái sinh – trở thành một phần của hệ sinh thái của một cánh đồng hoặc một khu rừng. Nó nghe có vẻ như là một kết thúc bi thảm, nhưng những dữ liệu mà nó mang lại có thể giúp các nhà khoa học pháp y xác định thời điểm một người chết và những thương tổn nào họ có thể đã phải chịu, điều mà đến lượt nó lại có thể giúp cho các nhà thi hành luật pháp giải quyết được một vụ án giết người.

Nếu tôi lựa chọn con đường này, cơ thể tôi có thể sẽ được dùng để tái dựng lại một hiện trường vụ án cụ thể – được treo lơ lửng trong một cánh rừng, hoặc được nhồi trong cốp một chiếc xe hơi – những việc có thể giúp các nhà pháp y giải quyết một vụ án, giúp cảnh sát mang kẻ giết người ra chịu tội trước công lý, cũng hệt như cách cha tôi đã từng giúp lật tẩy những tội ác chết người. Có lẽ điều này sẽ giúp an ủi phần nào gia đình vẫn còn đau khổ của nạn nhân. Sau đó, bộ xương của tôi có sẽ được an nghỉ trong một hộp kính trong bộ sưu tập của phòng nghiên cứu pháp y, đôi lúc sẽ lại được dùng lại trong một nghiên cứu về sự lão hóa của xương.

Đây đều là những di sản đáng để lại, nhưng còn một lựa chọn khác nữa cho việc hiến-toàn bộ thân xác, một truyền thống lâu đời của ngành đào tạo y khoa, mà nghe có vẻ phù hợp với tôi hơn. Mọi sinh viên y khoa năm nhất đều phải học một khóa về giải phẫu học mà trong đó, họ thực tập giải phẫu một cơ thể người đã chết. Đây chính là bệnh nhân đầu tiên của họ. Đó có thể tử thi đầu tiên trong đời họ từng được nhìn thấy, hay chạm tay tới. Khi họ bước chân vào căn phòng giải phẫu, họ có thể thấy đôi ba – hoặc một vài chục – những cơ thể khác nhau, mỗi cái là một ví dụ cụ thể, sinh động cho sự đa dạng đến vô vàn của kích thước và hình dáng cơ thể con người.

Những người từng trải nghiệm nó đã kể với tôi rằng, mối quan hệ giữa các sinh viên y khoa và cái xác đầu tiên họ thực tập mổ là một mối quan hệ đặc biệt. Tử thi sẽ cung cấp cho họ những kiến thức mà các sinh viên sẽ không thể nào có được bằng những cách khác; người sinh viên thì vô cùng choáng ngợp và biết ơn vì món quà. Một bác sĩ đa khoa tôi từng phỏng vấn đã tâm sự với tôi rằng: “Bạn có thể học được các kiến thức, nhưng khi bước ra khỏi quá trình đó, bạn sẽ bước ra với sự biết ơn, với một niềm kính trọng tuyệt đối với khối cấu trúc sinh học kỳ diệu ở ngay trước mắt bạn kia. Và bạn sẽ bắt đầu trân trọng cơ thể con người theo một cách hoàn toàn khác.”

Trong viễn cảnh này, nếu tôi lựa chọn nó, cơ thể tôi sẽ có thể dạy cho một người bác sĩ tương lai nền tảng quyết định của kỹ thuật hút dịch tủy xương sống (spinal tap), hay cách cắt bỏ những phần ruột thừa bị viêm nhiễm. Một bác sĩ phẫu thuật có thể học cách giải phẫu những hệ thần kinh tinh vi nơi hai bàn tay của tôi. Hay, có lẽ, một bác sĩ nghiên cứu bệnh học tương lai có thể nhờ tôi mà nhận ra sự khác biệt giữa những cục máu đông hình thành trước, và sau thời điểm tử vong.

Đó là một quyết định rất lớn, để chọn xem bạn sẽ đi đến đâu sau khi bạn đã mất, và là một quyết định vô cùng cá nhân. Rất nhiều người sẽ không muốn thậm chí bận tâm nghĩ đến nó, một số người khác còn không được phép tự mình quyết định một chuyện như vậy. Với tôi, tôi sẽ chọn lấy một vai trò chủ động, và tôi đủ may mắn để có được một cơ hội như thế. Tôi vẫn chưa đi đến quyết định cuối cùng, nhưng có một mẫu khai đăng ký hiến cơ thể cho một trường y khoa đã được lưu sẵn trên màn hình máy tính của tôi. Có lẽ, cho đến 31 tháng 12 cuối năm nay – ngày mà bằng lái xe của tôi hết hạn, và cũng là sinh nhật tôi – tôi sẽ điền mẫu đăng ký đó, và bỏ nó vào hòm thư bưu điện.



Xuất bản ngày 04 tháng Mười, năm 2013
Chủ đề bài đăng: Cái chết, Y khoa, Nghi thức.


Người dịch: Nguyễn Tiến Đạt (sutucon)
Dịch và chỉnh sửa xong lúc 13h26, ngày 25/12/2013

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét