Thứ Sáu, 27 tháng 12, 2013

Trẻ em của chúng ta đang thiếu hụt trầm trọng thời gian chơi

Trẻ em ngày nay được cưng chiều rất nhiều, nhưng chúng cũng phải chịu một lượng áp lực rất lớn. Nếu không được tự do để chơi đùa, các em sẽ không bao giờ có thể lớn được.

– – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – –
Tác giả: Peter Gray



Peter Gray là một nhà tâm lý và là giáo sư nghiên cứu tại Đại học Boston, Mỹ. Ông là người đã viết blog “Freedom to Learn”, và cũng là tác giả của các cuốn sách như “Free to Learn(2013) và “Psychology(2011).


Ở vùng quê tại Le Grandes Meaulnes; trẻ em chơi đùa gần làng Baudrémont, vùng Meuse, nước Pháp. Ảnh bởi Alex Webb/Magnum

Khi tôi còn là một đứa trẻ vào những năm 1950, tôi và các bạn của mình có hai nền giáo dục. Chúng tôi có trường học (mà ở vào ngày đó không quá quan trọng như hiện giờ), và chúng tôi cũng có thứ mà tôi hay gọi là nền giáo dục kiểu săn bắt-hái lượm. Chúng tôi thoải mái chơi đùa trong một nhóm những đứa trẻ hàng xóm lẫn lộn tuổi tác, hầu như mỗi ngày sau giờ tan học, thường là đến tận tối đêm. Chúng tôi chơi trong suốt những ngày cuối tuần, và trong suốt những ngày nghỉ hè. Chúng tôi có thời gian để khám phá thế giới theo đủ mọi cách khác nhau, và cũng có đủ thời gian để thấy chán, và tìm ra cách mới để lại hết chán, có thời gian để vướng vào đủ mọi loại rắc rối và tìm được cách thoát ra khỏi chúng, có thời gian để mơ mộng, để chìm đắm bản thân trong những thú vui, thời gian để đọc truyện tranh và cả tỉ thứ khác mà chúng tôi muốn xem, chứ không phải những cuốn sách mà chúng tôi được giao cho để đọc. Những gì tôi đã học được trong nền giáo dục săn bắt-hái lượm này của mình trở nên có giá trị với cuộc sống người lớn của tôi hơn rất nhiều tất cả những thứ tôi học được ở trường học, và tôi nghĩ rằng những người khác ở tuổi của tôi hẳn cũng sẽ nói vậy, nếu họ chịu dành thời gian để suy nghĩ về nó.

Trong suốt hơn 50 năm qua, nước Mỹ chúng ta đã liên tục cắt giảm dần những cơ hội để được chơi đùa của con trẻ, và điều tương tự cũng đã và đang xảy ra với rất nhiều nước khác. Trong cuốn sách của mình “Children at Play: An American History ” (2007),  Howard Chudacoff đã đề cập đến nửa đầu của thế kỷ 20 như “thời đại vàng” của tự do chơi đùa ở trẻ em. Vào những năm 1900, nhu cầu lao động trẻ em đã giảm xuống, nên trẻ em có một lượng rất lớn thời gian rảnh rỗi. Thế nhưng rồi, bắt đầu từ khoảng những năm 1960 trở đi, người lớn bắt đầu cắt gọt dần đi sự tự do đó của trẻ nhỏ, bằng cách gia tăng lượng thời gian mà các học sinh phải dành cho công việc học tập, và, rõ ràng hơn nữa, bằng cách giới hạn cả quyền được chơi đùa tự do theo ý thích của các em, kể cả khi chúng đã tan học và không phải làm bài tập. Những môn thể thao định-hướng-bởi-người-lớn bắt đầu thay thế những trò chơi “ngẫu hứng” của trẻ nhỏ; những lớp học thêm định-hướng-bởi-người-lớn dần thay thế những thú vui ngoài giờ học; và nỗi sợ của các ông bố bà mẹ còn dẫn họ đi xa đến mức thậm chí ngăn cấm con em mình ra ngoài chơi với những đứa trẻ khác, xa khỏi nhà, khỏi tầm mắt giám sát của người lớn. Có rất nhiều lý do dẫn đến những sự thay đổi này, nhưng ảnh hưởng của nó, trong suốt những thập kỷ qua, là đã tạo nên một sự suy giảm liên tục, và vô cùng trầm trọng, những cơ hội để được chơi đùa và được tự do khám phá thế giới của trẻ nhỏ.

Cũng trong quãng thời gian mấy thập kỷ mà sự tự do chơi đùa của con trẻ bị suy giảm đó, các chứng bệnh rối loạn về tinh thần ở trẻ nhỏ bắt đầu xuất hiện ngày một nhiều hơn. Chúng ta không phải chỉ đang nhìn thấy những thứ đã có từ trước mà ta đã vô tình bỏ qua. Ví dụ, các bảng câu hỏi điều tra sức khỏe với mục đích đo mức độ lo lắng và trầm cảm đã được phát đều đặn với hình thức không đổi cho các học sinh trên khắp nước Mỹ từ những năm 1950. Kết luận đánh giá từ những bảng điều tra này cho thấy có một sự tăng trưởng kéo dài và liên tục về mức độ lo lắng và trầm cảm ở những người trẻ tuổi trong suốt các thập kỷ qua. Loại hội chứng mà ngày nay vẫn được chẩn đoán là “Rối loạn lo lắng phổ quát” (‘Generalised Anxiety Disorder’, hay GAD), cũng như chứng trầm cảm nặng ở trẻ nhỏ, đã tăng vọt từ năm đến tám lần so với mức độ đo được của những năm 1950. Cũng trong khoảng thời gian đó, tỷ lệ tự tử ở những người trẻ từ 15 đến 24 đã tăng hơn gần gấp đôi, và ở những trẻ em dưới 15 tuổi thì đã tăng lên gần gấp bốn.

Sự suy giảm về cơ hội được chơi của trẻ nhỏ cũng đồng hành với sự suy giảm về mức độ cảm thông và sự tăng lên của thói ích kỷ, cả hai điều này đều đã được liên tục theo dõi và đánh giá từ những năm cuối thập kỷ 70, bằng các bảng câu hỏi điều tra tiêu chuẩn phát đều đặn hàng năm cho một số nhóm sinh viên đại học tiêu biểu. Sự cảm thông đề cập đến tính cách của những người có khả năng, và có xu hướng, có thể nhìn mọi việc từ góc nhìn của một người khác, và cảm nhận được những gì người đó đang phải cảm nhận. Sự ích kỷ đề cập đến những cái tôi đã được thổi phồng quá mức, đi cùng với một sự thiếu quan tâm hoàn toàn tới người khác, và sự bất lực trong việc kết nối cảm xúc của mình với mọi người Suy giảm lòng cảm thông và tăng lên của tính ích kỷ chính xác là những gì người ta có thể trông chờ ở một đứa trẻ lớn lên mà gần như không có cơ hội được chơi đùa với chúng bạn trong các hoạt động tập thể. Trẻ em không thể học được các kỹ năng xã hội và giá trị đạo đức này từ trường học, bởi trường học là một thế lực áp chế, chứ không phải một môi trường dân chủ. Trường học nuôi dưỡng và khuyến khích sự tranh đua về thứ hạng, chứ không phải tinh thần hợp tác; và trẻ em ở đó không được phép tự ý rời bỏ khi nó muốn, kể cả khi những người khác không hề tôn trọng nhu cầu và ước muốn của nó.

Trong cuốn sách mới đây của tôi, “Free to Learn” (2013), tôi có ghi nhận lại những thay đổi này, và tranh luận rằng sự tăng lên của các chứng bệnh rối loạn tinh thần nơi trẻ nhỏ phần lớn là hậu quả của sự suy giảm trong mức độ tự do của các em. Nếu chúng ta yêu quý con em mình, và muốn chúng phát triển khỏe mạnh, chúng ta cần cho các em nhiều thời gian và cơ hội để chơi hơn nữa, chứ không phải lấy bớt thêm đi của chúng. Ấy vậy nhưng, các nhà làm chính sách và những người nhân đức vẫn đang tiếp tục dồn ép chúng ta đi theo hướng ngược lại – hướng của nhiều giờ học hơn nữa, nhiều bài kiểm tra hơn nữa, nhiều những lối đi đã được vạch sẵn bởi người lớn cho các em hơn nữa, và ít thêm hơn nữa những cơ hội để được tự do vui chơi.
Gần đây tôi có tham gia vào một cuộc tranh luận trên sóng phát thanh với một người phụ nữ, đại diện cho một tổ chức có tên “Trung Tâm Quốc Gia về Thời Gian và Học Tập” (“National Center on Time and Learning”); tổ chức này đang vận động để kéo dài thêm thời gian ngày học ở trường và thời gian niên khóa trong năm cho các học sinh ở Mỹ (bản ghi âm cuộc tranh luận có thể được tìm thấy ở đây ). Lập luận của bà – thống nhất với mục đích hoạt động của tổ chức do bà thành lập, cũng như với những lời giục giã từ Tổng thống Mỹ Barack Obama và Bộ trưởng Bộ Giáo Dục Mỹ, ông Arne Duncan – là trẻ em cần dành nhiều thời gian hơn ở trường học như là yêu cầu hiện nay, để các em có thể được chuẩn bị tốt hơn cho một thế giới cạnh tranh không ngừng của hôm nay và cả ngày mai. Người dẫn chương trình đã giới thiệu cuộc tranh luận đó với một câu hỏi: “Liệu các học sinh của chúng ta có cần thêm nhiều thời gian hơn nữa để học không, hay liệu các em cần nhiều thời gian hơn nữa để chơi?”
Học đối đầu với chơi. Sự phân biệt rất rạch ròi đó có vẻ đã quá rõ ràng với những người như người dẫn chương trình của tôi, như đối thủ tranh luận của tôi, như ngài Tổng thống của tôi và cả ngài Bộ trưởng Bộ Giáo Dục của tôi – và có thể là cả với bạn nữa. Học tập, dựa theo những điều gần như đã là lẽ đương nhiên với nhiều người, là những gì mà trẻ em làm ở trường học, và có thể, là ở các hoạt động được định-hướng-bởi-người-lớn khác. Từ góc nhìn đó, kỳ nghỉ hè chỉ là một giờ giải lao kéo dài, có lẽ quá dài so với mức cần thiết. Nhưng ở đây tôi có một góc nhìn khác, mà đúng ra nên là điều hiển nhiên mới phải, nhưng có vẻ lại không có ai coi nó là vậy. Khi chơi đùa, trẻ em học được những bài học quan trọng nhất của cuộc sống, những bài học mà không thể được dạy ở trường học. Để học được tốt những bài học này, trẻ em cần thật nhiều thời gian để chơi – rất nhiều, rất nhiều thời gian để tự do chơi, mà không có sự can thiệp của người lớn.
Tôi là một nhà tâm lý học tiến hóa (evolutionary psychologist), tức là tôi rất có hứng thú với bản tính tự nhiên của con người, với mối quan hệ giữa nó và bản tính tự nhiên của các loài động vật khác, và làm thế nào những bản tính đó định hình quá trình chọn lọc tự nhiên. Thứ tôi đặc biệt hứng thú nhất, chính là sự chơi đùa.
Con non của tất cả các loại động vật có vú đều chơi đùa. Tại sao? Sao chúng lại muốn phung phí năng lượng và liều lĩnh mạo hiểm cả tính mạng, tay chân của mình khi chơi đùa; trong khi chúng hoàn toàn có thể cứ nằm dài nghỉ ngơi, cuộn tròn mình an toàn trong một cái ổ kín đáo nào đấy? Đó là loại câu hỏi mà các nhà tâm lý học tiến hóa thắc mắc. Người đầu tiên đặt câu hỏi cho vấn đề này từ góc nhìn theo thuyết tiến hóa Darwin là nhà triết học và sinh vật học người Đức Karl Groos. Trong một cuốn sách của mình có tên “The Play of Animals” (1898) (Tạm dịch: “Sự chơi của các loài động vật” ), Groos tranh luận rằng hoạt động chơi đùa đến cùng với chọn lọc tự nhiên, như một phương cách để đảm bảo rằng các loài động vật sẽ luyện tập những kỹ năng cần thiết cho chúng để có thể tồn tại và sinh sản sau này.
Đây được gọi là “thuyết luyện tập của sự chơi đùa” (‘practice theory of play’), và nó được chấp nhận rộng rãi bởi rất nhiều các nhà nghiên cứu hiện nay. Nó giải thích tại sao các con thú nhỏ lại chơi đùa nhiều hơn các con thú lớn (bởi vì chúng có nhiều thứ cần phải học hơn), và tại sao những loài thú ít phải phụ thuộc vào các bản năng sinh tồn thuần túy, mà thay vào đó phải sử dụng nhiều các kỹ năng yêu cầu việc học hỏi và tập luyện hơn, lại là những giống loài chơi đùa nhiều hơn. Tới một mức độ nhất định, bạn hoàn toàn có thể dự đoán được cách một loài thú sẽ chơi đùa như thế nào, nếu biết được nó cần những kỹ năng gì sau này để có thể sinh sản và tồn tại. Sư tử con và các loài thú ăn thịt khác khi còn nhỏ chơi những trò như rình mồi, vồ mồi, hoặc rượt đuổi; trong khi những chú ngựa vằn non và các loài thú hay bị săn thịt khác chơi đùa với những hoạt động như chạy trốn, hoặc tránh né kẻ địch.
Liệu chúng ta có cần thêm hơn nữa những người chỉ giỏi ghi nhớ đáp án cho các câu hỏi, và có thể đọc lại vach vách chúng không? Những người tuyệt đối chấp nhận làm tất cả những gì họ được bảo phải làm, mà không bao giờ hỏi lại một câu hỏi nào?
Groos tiếp nối cuốn sách của mình “The Play of Animals” (Tạm dịch: “Sự chơi của các loài động vật” ) với một cuốn sách thứ hai, nhan đề “The Play of Man” (1901) (Tạm dịch: “Sự chơi của con người” ); trong đó ông mở rộng những suy ngẫm của mình từ hoạt động chơi đùa ở động vật tới hoạt động chơi đùa ở con người. Ông chỉ ra rằng con người, bởi vì có nhiều thứ để học hơn tất cả các giống loài khác rất nhiều, cũng chính là loài động vật chơi nhiều nhất trong tất cả mọi loài. Không như với con non của các giống loài khác, trẻ em, các “con non” của loài người, phải học những kỹ năng khác nhau tùy thuộc vào từng vùng văn hóa khác biệt nơi chúng lớn lên. Bởi vậy, ông tranh luận rằng, chọn lựa tự nhiên ở con người ưu ái hơn rất nhiều những đứa trẻ có khả năng quan sát hành động của người lớn, và mô phỏng lại những hoạt động đó trong các trò chơi đùa của mình. Ông đề xuất rằng con trẻ trong tất cả mọi nền văn hóa, khi được tự do chơi đùa, sẽ tập chơi không chỉ những kỹ năng quan trọng với tất cả con người dù ở bất cứ đâu (ví dụ, khả năng đi và chạy thuần thục bằng hai chân), mà chúng còn tập chơi cả những kỹ năng đặc thù riêng cho mỗi nền văn hóa của mình nữa (ví dụ như bắn cung, hoặc chăn lùa gia súc).
Những nghiên cứu và ý tưởng của riêng tôi đã được xây dựng dựa trên công trình khám phá tiên phong được thực hiện bởi Groos. Một nhánh của các công trình nghiên cứu đó là quan sát các trẻ em sống trong những nền văn hóa săn bắt-hái lượm. Trước khi nông nghiệp phát triển, khoảng trên dưới 10.000 năm trước, tất cả loài người chúng ta đều sống trong những môi trường văn hóa săn bắt-hái lượm. Có những nhóm người vẫn tồn tại và phát triển đến tận ngày nay với tư cách là những kẻ săn bắt-hái lượm, và họ đang là đối tượng được nghiên cứu kỹ của các nhà nhân chủng học. Tôi đã tìm đọc tất cả những bài viết tôi có thể tìm thấy về giai đoạn trẻ em trong nền văn hóa săn bắt-hái lượm. Và một vài năm trước, tôi đã tiến hành một khảo sát nhỏ trên 10 nhà nhân chủng học, những người đã được sống trong bảy nền văn hóa săn bắt-hái lượm, trên ba lục địa khác nhau.
Những người săn bắt-hái lượm không có thứ gì giống với trường học hết. Những người lớn tin rằng con trẻ học bằng cách quan sát, khám phá, và chơi đùa, và bởi vậy họ cho chúng lượng thời gian không giới hạn để làm những điều đó. Khi trả lời cho câu hỏi khảo sát của tôi, “Trẻ em trong nền văn hóa mà bạn quan sát được dành bao nhiêu thời gian để chơi đùa mỗi ngày?”, các nhà nhân chủng học đều trả lời cùng một ý thống nhất: họ nói rằng đứa trẻ được tự do chơi trong gần như là toàn bộ khoảng thời gian nó thức, kể từ khi bốn tuổi (thời điểm đứa trẻ được coi là đã đủ lớn để có thể tự đi xa, tách khỏi người lớn, với một nhóm các trẻ em lẫn lộn đủ các tuổi khác); cho tới khoảng giữa – hoặc cuối – tuổi vị thành niên (khi các em bắt đầu tự chủ động gánh vác một số trách nhiệm của người lớn). Ví dụ, Karen Endicott, người đã nghiên cứu nhóm cư dân săn bắt-hái lượm của tộc người Batek, ở Malaysia, đã báo cáo lại rằng: “Trẻ em được tự do chơi gần như suốt cả ngày, không một ai mong chờ những đứa trẻ phải làm những công việc nghiêm túc cho tới tận khi chúng bước vào cuối tuổi vị thành niên”.
Điều này rất thống nhất với giả thiết của Groos về việc chơi đùa cũng là một hình thức luyện tập. Các bé trai liên tục chơi những trò như lần theo dấu vết, hay giả vờ đi săn thú, và cả các bé trai lẫn bé gái đều chơi những trò như tìm và đào các loại rễ cây có thể ăn được. Chúng bày những trò chơi như leo cây, nấu nướng, xây lều, và tập chế tạo các vật dụng cần thiết khác trong nền văn hóa của mình, như làm thuyền độc mộc chẳng hạn. Chúng tập tranh cãi và thảo luận, đôi lúc bắt chước lại những người lớn, cố thảo luận để xem liệu chúng có thể nghĩ ra gì tốt hơn những điều người lớn đã bàn bạc tối hôm qua bên bếp lửa hay không. Chúng hào hứng nhảy múa những điệu nhảy dân tộc; hát vang những bài ca truyền thống, nhưng chúng cũng đồng thời phịa ra những giai điệu, lời ca mới. Chúng tự làm và chơi những loại nhạc cụ giống như những thứ mà người lớn trong tộc của chúng vẫn làm và chơi. Thậm chí cả những đứa bé rất nhỏ cũng chơi với những vật nguy hiểm, như dao hoặc lửa, nhưng những người lớn để mặc cho chúng được tự do, bởi “Nếu không thế thì làm sao tụi nhỏ biết cách dùng chúng được?”. Chúng làm tất cả những điều này, và hơn cả thế nữa, không phải bởi vì người lớn đã yêu cầu hoặc khuyến khích chúng làm vậy, mà bởi vì tự chúng muốn thế. Chúng làm thế bởi vì chúng thấy nó vui; và còn bởi vì có một thứ khác ở sâu bên trong chúng, kết quả của hàng ngàn hàng vạn năm tiến hóa và chọn lọc tự nhiên, đã thúc giục chúng chơi những hoạt động phù hợp với từng nền văn hóa của mình, để chúng có thể trở thành những người lớn thạo việc và hiểu biết sau này.
Trong một nhánh khác của nghiên cứu của mình, tôi nghiên cứu những đứa trẻ được học tập tại một ngôi trường thực nghiệm theo một phương pháp giáo dục mới, trường Sudbury Valley, cũng không xa nhà tôi lắm, tại bang Massachusetts, Mỹ. Gọi là trường học, nhưng nơi đây khác xa với tất cả những gì chúng ta vẫn nghĩ về “trường học”, khác đến mức không thể khác hơn được nữa. Những học sinh – có độ tuổi trải dài từ 4 cho tới tận 19 tuổi – được tự do cả ngày để làm bất cứ thứ gì mà chúng muốn, miễn là chúng không vi phạm bất cứ nội quy nào của trường. Và các nội quy này cũng chẳng có liên quan gì đến việc học hết, chúng chỉ nhằm để giữ trật tự và ổn định trong trường mà thôi.
Với phần lớn mọi người, chuyện này quả thực là quá điên rồ. Làm thế nào mà bọn trẻ có thể học được gì với kiểu dạy như vậy? Ấy vậy nhưng, ngôi trường này đã tồn tại được 45 năm rồi, và giờ đây đã có hàng trăm học sinh từng tốt nghiệp từ đây. Những người này có thể làm việc hoàn toàn hiệu quả trong xã hội, không phải bởi vì ngôi trường họ học đã dạy gì tuyệt vời cho họ, mà bởi vì nó đã cho phép họ được tự do học bất cứ thứ gì mà họ muốn. Và, cũng thống nhất với lý thuyết của Groo, những gì các em nhỏ trong nền văn hóa của chúng ta muốn học khi chúng được tự do chọn lựa, rút cục đều trở thành nhưng kỹ năng được đánh giá rất cao trong nền văn hóa của chúng ta, có thể đem đến những công việc tốt và một cuộc sống thỏa mãn. Khi chúng chơi, những học sinh này học cách đọc, tính toán, và sử dụng máy tính với cùng một niềm ham thích đầy hứng thú như cách những đứa trẻ trong nền văn hóa săn bắt-hái lượm kia đã học những kỹ năng săn bắt và hái lượm. Chúng có thể không thực sự nghĩ rằng mình đang học. Chúng có thể nghĩ rằng mình chỉ đang chơi, hoặc thử “tự làm các thứ”, nhưng chính trong quá trình đó, chúng cũng đang học.
Một thứ còn quan trọng hơn cả những kỹ năng cụ thể, đấy là những thái độ, suy nghĩ và cảm xúc mà chúng đã học được. Chúng học được cách chịu trách nhiệm với bản thân và trước cộng đồng của mình, và chúng học được rằng cuộc sống rất vui, thậm chí (và có thể đặc biệt là) khi nó có đầy những khó khăn thử thách. Tôi cũng phải nói thêm rằng đây không phải là một ngôi trường đắt đỏ gì; nó hoạt động với mức thu phí trên một học sinh chỉ bằng một nửa so với các trường công lập trong cùng khu vực, và ít hơn nhiều so với hầu hết mọi trường tư.
Trường thực nghiệm Sudbury Valley và những bộ tộc săn bắt-hái lượm kia có thể khác nhau ở rất nhiều mặt, nhưng chúng giống nhau ở cùng một điểm, đó là đều cung cấp cho con trẻ những điều – mà theo tôi nghĩ – là những điều kiện cốt yếu, quan trọng nhất để phát triển đến tối đa khả năng tự giáo dục bản thân tự nhiên nhất ở trẻ nhỏ. Cả hai cùng chia sẻ một yêu cầu của xã hội (và cả một thực tế) rằng giáo dục là trách nhiệm của trẻ em, không phải là thứ người lớn làm cho chúng; và họ cho trẻ em quyền tự do tối thượng để được thỏa sức chơi đùa, khám phá, và theo đuổi sở thích riêng của mình. Họ đồng thời cũng cung cấp đủ cơ hội để các em được chơi với những công cụ của xã hội; để các em có thể tiếp cận với thật nhiều những người lớn yêu thương và hiểu biết khác nhau, những người ở đó để giúp đỡ, chứ không phải để phán xét; và cung cấp cho các em những nhóm bạn với lẫn lộn nhiều nhóm tuổi, cả trẻ em lẫn thiếu niên (chơi với một tập thể lẫn lộn nhiều nhóm tuổi sẽ giúp việc học dễ dàng hơn là chơi trong một nhóm mà tất cả đều cùng một trình độ). Cuối cùng, trong cả hai bối cảnh, trẻ em đều được đắm mình trong một cộng đồng ổn định, giàu đạo đức, vậy nên chúng có thể thu được những giá trị của cộng đồng, và có một cảm giác trách nhiệm với tất cả những người khác, chứ không phải chỉ với riêng bản thân mình.
Tôi không kỳ vọng sẽ thuyết phục được hầu hết mọi người, ít nhất là cũng không phải trong tương lai gần, rằng ta nên bãi bỏ tất cả mọi trường học như chúng ta biết hiện giờ, và thay thế chúng bằng những trung tâm để chơi đùa tự-định-hướng và để khám phá cho trẻ nhỏ. Nhưng tôi có tin rằng có một cơ hội để thuyết phục phần lớn mọi người rằng thời gian chơi đùa bên ngoài giờ học là vô cùng quan trọng với trẻ em. Chúng ta ngay lúc này đã lấy bớt nó đi của các em quá nhiều rồi, chúng ta tuyệt đối không thể lấy thêm một chút nào nữa.
Tổng thống Obama và ngài Bộ trưởng Bộ Giáo Dục của ông, ông Arne Duncan, cùng với nhiều những người ủng hộ khác cho trường học truyền thống và nhiều bài kiểm tra hơn nữa, muốn trẻ em phải được chuẩn bị tốt hơn cho thế giới ngày hôm nay và ngày mai. Nhưng chuẩn bị như thế nào là cần thiết? Liệu chúng ta có cần thêm hơn nữa những người chỉ giỏi ghi nhớ đáp án cho các câu hỏi, và có thể đọc lại vach vách chúng không? Những người tuyệt đối chấp nhận làm tất cả những gì họ được bảo phải làm, mà không bao giờ hỏi lại một câu hỏi nào? Trường học được thiết kế ra để dạy con người những cái đó, và nó đã làm được điều đó khá tốt. Hay liệu chúng ta cần những người có thể đặt ra những câu hỏi mới và biết tìm ra những câu trả lời mới, biết tư duy một cách có suy xét và sáng tạo, biết phát kiến và tự chủ động đưa ra quyết định, và biết cách vừa làm vừa học, không cần sự trợ giúp từ bất cứ ai? Tôi dám cá là các ông Obama và Duncan cũng sẽ đồng ý rằng mọi đứa trẻ cần những kỹ năng đó vào lúc này hơn lúc nào hết. Nhưng trường học hiện giờ lại tệ hại vô cùng trong việc dạy những kỹ năng này.
Đã từ suốt hơn hai thập kỷ nay, các nhà điều hành giáo dục ở Mỹ, Anh và Úc đã liên tục thúc giục chúng ta cần phải học tập các trường học ở Châu Á – đặc biệt là các trường học ở Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc. Trẻ em ở đó dành nhiều thời gian hơn cho việc học so với trẻ em Mỹ, và cũng ghi điểm cao hơn nhiều trong những bài kiểm tra tiêu chuẩn của quốc tế. Nhưng điều mà ngài Bộ trưởng Giáo Dục Duncan có vẻ không nhận ra, hay không chịu thừa nhận, đấy là các nhà điều hành giáo dục tại những quốc gia đó cũng đang càng lúc càng phê phán nền giáo dục của chính đất nước họ, coi chúng như là những thất bại. Trong khi đúng là các ngôi trường của họ đã làm rất xuất sắc trong việc sản xuất ra các học sinh đạt điểm cao ngất ngưởng trong những bài kiểm tra, chúng vẫn vô cùng tệ hại trong việc tạo ra được những người sau tốt nghiệp có khả năng sáng tạo, hay có một niềm ham thích với học tập.
Trong một bài báo với tiêu đề “Các trường học giỏi làm bài kiểm tra của Trung Quốc vẫn đang thất bại” (The Test Chinese Schools Still Fail’), trên báo The Wall Street Journal số ra tháng 12 năm 2010, Jiang Xueqin, một nhà giáo dục Trung Quốc nổi tiếng, đã viết: “Những thất bại của hệ thống giáo dục dạy theo kiểu bắt học thuộc lòng kiến thức đã quá rõ ràng: người học thiếu hẳn kỹ năng xã hội và những kỹ năng thực tế khác, không có tính tự chủ và thiếu trí tưởng tượng, đánh mất trí tò mò và niềm ham thích dành cho học tập... Một cách để chúng ta biết rằng chúng ta đang thành công trong việc thay đổi nền giáo dục của Trung Hoa, đấy là khi những điểm số [của những bài kiểm tra tiêu chuẩn hóa] này hạ xuống”. Trong lúc đó, Yong Zhao, một giáo sư ngành giáo dục Mỹ, người đã lớn lên tại Trung Quốc, và chuyên ngành về so sánh nền giáo dục của Trung Quốc với hệ thống giáo dục ở Mỹ, đã chép lại rằng thuật ngữ thường sử dụng ở Trung Quốc khi nói đến những người sau tốt nghiệp là gaofen dineng, có nghĩa là “điểm cao, nhưng khả năng thấp”. Bởi vì các học sinh dành hầu hết thời gian để học và học, các em có gần như rất ít cơ hội để được tư duy sáng tạo, để tự chủ động ra quyết định, hay để phát triển những kỹ năng thể chất hoặc xã hội khác: nói gọn lại, các em có rất ít cơ hội để được chơi.
Thật không may, khi chúng ta đang càng lúc càng tiến dần đến một chương trình học tiêu chuẩn hóa, và khi chúng ta vẫn đang càng lúc càng chiếm dụng dần nhiều thời gian hơn nữa của con em chúng ta với các bài kiểm tra và giờ học, kết quả nền giáo dục của chúng ta thực sự đang càng lúc càng giống với kết quả của nền giáo dục ở các quốc gia Châu Á kia. Một bằng chứng cho điều này đến từ kết quả của một hệ thống đơn vị đo lường sự sáng tạo – có tên Bài Kiểm tra Torrance về Tư duy Sáng tạo (Torrance Tests of Creative Thinking, hay viết tắt là TTCT) – với những dữ liệu thu thập được từ nhiều nhóm học sinh Mỹ tiêu biểu, trải dài từ mẫu giáo tới hết lớp 12 (khoảng 17-18 tuổi) , trong suốt vài thập kỷ qua. Kyung-Hee Kim, một nhà tâm lý học giáo dục tại Đại học William và Mary ở bang Virginia, Mỹ, đã đánh giá những điểm số này, và báo cáo lại rằng chúng đã bắt đầu suy giảm dần từ năm 1984, và vẫn đang tiếp tục suy giảm rõ rệt kể từ đó đến giờ. Như Kim đã dùng trong một bài viết của cô, “Cuộc Khủng Hoảng Sáng Tạo” (‘The Creativity Crisis’), đăng trên tạp chí Creativity Research Journal số ra năm 2011, những dữ liệu thu thập được cho thấy rằng “trẻ em đã trở nên ít thể hiện cảm xúc hơn, ít hăng hái hơn, ít vui vẻ hài hước hơn, ít tưởng tượng hơn, ít mới lạ so với truyền thống hơn, ít hoạt náo và đam mê hơn, ít sáng dạ hơn, ít có thể liên kết những thứ tưởng chừng không liên quan lại với nhau hơn, và ít có khả năng có thể nhìn mọi việc từ một góc độ khác hơn”.
Bạn không thể dạy được sự sáng tạo, tất cả những gì bạn có thể làm chỉ là để cho nó tự nảy nở, và sự sáng tạo sẽ nảy nở trong những lúc chơi đùa.
Từ các nghiên cứu của Kim, có thể thấy rằng tất cả các khía cạnh của sự sáng tạo đều đã suy giảm, nhưng sự suy giảm lớn nhất là ở phần đơn vị “phát triển sáng tạo” (‘creative elaboration’),  đo đạc khả năng phát triển một ý tưởng cụ thể nào đó theo một hướng thú vị và mới mẻ. Từ năm 1984 tới 2008, số điểm “phát triển sáng tạo” trung bình của bảng đánh giá TTCT, ở tất cả các khối học từ mầm non trở đi, đều đã giảm xuống ít nhất là một bậc. Nói một cách khác, nó có nghĩa là hơn 85% trẻ em của năm 2008 có điểm số thấp hơn ở hạng mục này so với một đứa trẻ trung bình của năm 1984. Nếu những “nhà cải cách” giáo dục đạt được ý nguyện của họ, nó sẽ còn suy giảm hơn nữa, khi mà trẻ em tiếp tục bị tước đoạt thêm thời gian chơi của mình. Một nghiên cứu khác, thực hiện bởi nhà tâm lý học Mark Runco và các đồng nghiệp tại Trung tâm Torrance về Tư duy Sáng tạo tại Đại học Georgia, Mỹ đã cho thấy rằng các điểm số trên Bài Kiểm tra TTCT là công cụ tốt nhất chúng ta có để có thể dự đoán được những thành tựu của tương lai. Chúng là những công cụ dự đoán còn tốt hơn cả chỉ số IQ, bảng điểm phổ thông, hay chế độ đánh giá bởi đồng nghiệp (peer judgments) để xem ai sẽ là những người có thể đạt được nhiều thành tựu nhất trong tương lai.
Bạn không thể dạy được sự sáng tạo, tất cả những gì bạn có thể làm chỉ là để cho nó tự nảy nở và phát triển. Trẻ nhỏ, trước khi chúng bắt đầu đi học, đã rất sáng tạo theo một cách vô cùng tự nhiên rồi. Những nhà phát kiến vĩ đại nhất của chúng ta, những người chúng ta gọi là các thiên tài, là những người đã bằng cách nào đấy giữ lại được khả năng tuyệt vời từ thuở ấu thơ đó, và xây dựng thêm lên từ nó, trong suốt cả phần đời còn lại của mình.  Albert Einstein, người hiển nhiên rất ghét trường học, đã đề cập đến thành công của mình trong ngành vật lý lý thuyết và toán học như là “một sự chơi đùa tổ hợp”. Một lượng lớn các nghiên cứu đã chỉ ra rằng con người ở vào trạng thái sáng tạo nhất khi họ tràn đầy tinh thần của sự vui chơi, khi họ nhận thấy rằng bản thân mình đang làm một công việc nào đó chỉ vì vui thích đơn thuần. Như nhà tâm lý học Teresa Amabile, giáo sư tại Đại học Kinh Tế Harvard, đã giới thiệu trong cuốn sách của bà, “Creativity in Context” (1996), và cũng như trong rất nhiều thí nghiệm đã cho thấy, việc nỗ lực tăng khả năng sáng tạo của con người bằng cách treo phần thưởng cho họ, hoặc bằng cách đặt họ vào trong những cuộc thi để xem ai là người sáng tạo hơn, đều sẽ chỉ phản tác dụng hoàn toàn. Rất khó để có thể sáng tạo khi bạn phải lo lắng đến đánh giá và phán xét của những người khác. Ở trường học, hoạt động của trẻ em liên tục bị đánh giá và phán xét. Trường học là một nơi tốt để học cách làm những gì người khác muốn bạn làm; nó là một nơi tệ hại đến vô cùng cho việc rèn luyện khả năng sáng tạo.
Khi Chanoff và tôi nghiên cứu những học sinh đã tốt nghiệp từ trường Sudbury Valley cho bài viết của chúng tôi: “Trường học dân chủ: “Điều gì đã xảy ra với những công dân trẻ khi họ có quyền điều hành toàn bộ nền giáo dục của mình?”, chúng tôi đặt các câu hỏi về những hoạt động mà họ đã chơi khi còn là học sinh, và về sự nghiệp mà họ đã chọn để theo đuổi sau khi tốt nghiệp. Trong rất nhiều trường hợp, có một mối liên hệ trực tiếp giữa hai nhân tố này. Các học sinh sau khi tốt nghiệp vẫn tiếp tục chơi với những hoạt động mà họ đã yêu thích khi còn là học sinh, với cùng một niềm vui, lòng ham thích và trí sáng tạo như vậy, chỉ khác là giờ đây, họ có thể làm ra tiền nhờ nó. Có những nhạc công chuyên nghiệp đã từng chơi với âm nhạc rất say sưa khi họ còn là các học sinh, và những lập trình viên tin học đã từng dành hầu hết thời gian còn đi học của họ để nghịch ngợm chơi đùa trên máy vi tính. Một người phụ nữ, người giờ là thuyền trưởng của một chiếc du thuyền, đã dành phần lớn thời gian làm học sinh của cô để chơi đùa với nước, trước tiên là với những con tàu đồ chơi, rồi dần dần đến những con tàu thật. Một người đàn ông giờ là một nhà chế tạo máy đắt giá, được khắp nhiều nơi săn đón, đã giành cả tuổi thơ của mình vô cùng vui thích chế tạo các thứ, cũng như gỡ tung tất cả mọi vật ra để xem chúng hoạt động như thế nào.
Không một người nào trong số họ sẽ có thể khám phá ra được những niềm đam mê này trong một ngôi trường tiêu chuẩn bình thường, nơi thời gian chơi đùa liên tục và tự do như vậy là thứ không bao giờ có. Trong một ngôi trường tiêu chuẩn, tất cả mọi người phải làm đúng hệt những gì mà người khác đang làm. Kể cả những ai có phát triển được đam mê với một thứ gì đó được dạy ở trường học, cũng sẽ phải học cách để kiềm chế nó lại, bởi dù có thích đến đâu đi nữa thì khi tiếng chuông báo đổi tiết học vang lên, họ vẫn sẽ phải dừng tất cả lại để chuyển sang một thứ gì đó khác. Chương trình học và những thời khóa biểu cố định đã kiềm thúc, khiến họ không thể theo đuổi được ham thích nào theo một cách sáng tạo và có ý nghĩa với bản thân mình. Rất nhiều năm trước đây, trẻ em vẫn còn có thời gian bên ngoài giờ học để theo đuổi những ham thích của mình, nhưng ngày nay các em đã quá bận với công việc học tập và đủ các hoạt động định-hướng-bởi-người-lớn khác rồi, hiếm khi các em có được một chút thời gian, hay một chút cơ hội nào, để được khám phá và đắm chìm bản thân mình trong những hoạt động mà các em thật lòng yêu thích.
Để có một cuộc hôn nhân hạnh phúc, hay những người bạn tốt, hay những người đồng nghiệp tuyệt vời, chúng ta cần phải biết cách hòa đồng với những người khác: có lẽ đó là kỹ năng quan trọng nhất mà mọi đứa trẻ cần phải học để có một cuộc sống thỏa mãn. Trong những nhóm người săn bắt-hái lượm, ở trường Sudbury Valley, và ở bất cứ nơi nào mà trẻ em có quyền tiếp cận thường xuyên với những trẻ em khác, hầu hết các hoạt động chơi đùa sẽ là chơi theo nhóm. Chơi theo nhóm chính là trường học để học về những kỹ năng giao tiếp xã hội.
Lý do khiến chơi đùa đóng một vai trò quan trọng đến vậy trong việc truyền đạt lại các kỹ năng giao tiếp xã hội chính là ở việc nó là một hoạt động hoàn toàn tự nguyện. Mọi người chơi đều có thể tự do bỏ đi nếu muốn, và khi họ không vừa ý họ sẽ bỏ đi. Mỗi người chơi đều biết rõ điều đó, vậy nên mục đích cuối cùng của những ai muốn trò chơi được tiếp tục, đấy là phải làm thỏa mãn được nhu cầu và ước muốn của bản thân mình, trong khi đồng thời vẫn phải thỏa mãn được những nhu cầu và ước muốn của các người chơi khác, để họ không bỏ đi. Giao tiếp trong khi chơi như vậy bao gồm rất nhiều thương lượng và thỏa hiệp. Nếu cô bé Betty Hống Hách muốn tự mình đặt ra mọi luật lệ và ra lệnh cho các bạn chơi của mình mà không để tâm đến ước muốn của họ, các bạn chơi của cô bé sẽ bỏ mặc cô bé lại một mình, và bắt đầu trò chơi của riêng chúng ở một chỗ nào khác. Đó là một động lực rất mạnh mẽ để buộc cô bé lần sau sẽ phải quan tâm đến các bạn của mình nhiều hơn. Những người bạn chơi đã bỏ đi kia cũng có thể sẽ học được một bài học khác nữa. Nếu chúng muốn chơi với Betty, người tuy hống hách nhưng vẫn có những phẩm chất mà chúng thích, lần tới chúng sẽ phải nói lớn và dõng dạc, rõ ràng hơn , phải khiến nhu cầu của chúng trở nên rõ ràng hơn nữa, để cho cô bé kia không thể tiếp tục tự mình điều hành cả trò chơi và lại phá hết niềm vui của cả bọn lần nữa. Để có thể vui vẻ thoải mái trong khi chơi đùa với tập thể, bạn buộc phải chủ động, nhưng cũng không được áp chế; và điều đó đúng với tất cả mọi dạng sinh hoạt xã hội trên đời.
Hãy nhìn bất kỳ nhóm trẻ con nào đang chơi và bạn sẽ thấy rất nhiều thương lượng và thỏa hiệp. Trẻ con mẫu giáo chơi “đồ hàng” dành nhiều thời gian để thảo luận về cách chơi hơn là thực sự chơi. Tất cả mọi thứ đều cần phải thương lượng – ai được làm “mẹ”, ai phải chịu làm “em bé”, ai được dùng đồ chơi gì để giả làm đồ hàng, và kết thúc câu chuyện của “gia đình” này sẽ là như thế nào. Những người chơi giỏi sẽ biết khéo léo dùng cách hỏi xác nhận để biến câu ra lệnh của mình thành một lời yêu cầu nhã nhặn: “Bây giờ giả vờ cái dây chuyền này là của tớ nhé, được không?”. Nếu đối phương không chịu, vậy thì cuộc thảo luận lại được tiếp tục.
Chúng ta không cùng mạnh mẽ như nhau, không cùng thông minh sáng dạ như nhau, cũng không cùng khỏe mạnh như nhau; nhưng tất cả chúng ta đều xứng đáng được tôn trọng, và được đáp ứng các nhu cầu của mình, như nhau.
Hoặc là hãy nhìn một nhóm trẻ em lẫn lộn nhiều nhóm tuổi chơi một trận đấu bóng chày “ngẫu hứng”. Một trò chơi ngẫu hứng là một sự chơi đùa tự do, bởi nó được quyết định bởi chính những người chơi, chứ không phải bởi một thế lực điều khiển từ bên ngoài (như huấn luyện viên hay trọng tài). Những người chơi phải tự chọn bên, thương lượng với nhau về luật lệ để phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, quyết định xem thế nào là công bằng và thế nào là không. Chúng phải hợp tác, không phải chỉ với những đồng đội cùng phe với mình, mà còn với cả những thành viên của đội đối thủ nữa, và chúng cần phải thật nhạy cảm với mọi yêu cầu và năng lực của từng thành viên tham gia. Billy Bé Bự có thể là tay ném bóng cừ khôi nhất, nhưng nếu những cầu thủ khác muốn được một lượt ném bóng, cậu bé nếu biết điều thì nên chịu nhượng bộ, để cho họ không bỏ đi. Và khi cậu ném bóng cho Timmy Còi Dí, người mới chỉ vừa học luật chơi, cậu nếu biết khôn thì nên ném quả bóng đi thật nhẹ nhàng, đúng ngay tầm vụt bóng của Timmy thôi, nếu không thì ngay cả chính những đồng đội của cậu cũng sẽ gọi cậu là đồ xấu tính. Nhưng khi cậu ném cho Wally Cao Kều chẳng hạn, cậu sẽ cần phải ném hết sức, nếu không Wally sẽ cảm thấy bị xúc phạm. Trong cuộc chơi ngẫu hứng, giữ cho cuộc chơi tiếp tục và vui cho tất cả mọi người còn quan trọng hơn gấp nhiều lần giành được chiến thắng.
Nguyên tắc vàng cho chơi đùa với tập thể không phải là “Hãy làm mọi thứ với những người khác như cách bạn muốn họ làm điều đó với mình”. Thay vào đó là một thứ khó hơn rất nhiều: “Hãy làm mọi thứ với những người khác như cách mà họ muốn bạn làm điều đó với họ”. Để làm được điều đó, bạn cần phải đặt mình vào suy nghĩ của người khác, và nhìn thấy được mọi thứ từ quan điểm của họ. Trẻ em tập luyện điều đó suốt trong những trò chơi tập thể. Sự bình đẳng trong chơi đùa không phải là sự bình đẳng của những cá nhân giống hệt nhau. Thay vào đó, nó là sự bình đẳng đến từ việc tôn trọng sự khác biệt của từng cá nhân, và đối xử với những nhu cầu và ước muốn của mỗi người với cùng một mức độ quan trọng như nhau. Đó cũng chính là, theo tôi nghĩ, cách diễn đạt lại tốt nhất câu nói nổi tiếng của Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson, rằng tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Chúng ta không cùng mạnh mẽ như nhau, không cùng thông minh sáng dạ như nhau, cũng không cùng khỏe mạnh như nhau; nhưng tất cả chúng ta đều xứng đáng được tôn trọng, và được đáp ứng các nhu cầu của mình, như nhau.
Tôi không muốn quá thần tượng hóa trẻ em. Không phải mọi trẻ em đều học được những bài học này một cách dễ dàng; những bọn bắt nạt vẫn luôn tồn tại. Nhưng chơi đùa với tập thể cho tới giờ vẫn là con đường hiệu quả nhất để học những bài học như vậy, và tôi ngờ rằng niềm ham muốn mãnh liệt được chơi những trò chơi như vậy ở trẻ em đã xuất hiện trong tiến hóa, chính là vì mục đích như vậy. Các nhà nhân chủng học đã báo cáo lại rằng gần như hoàn toàn không có hành động bắt nạt hay áp chế nào trong những cộng đồng săn bắt-hái lượm. Trên thực tế, có một tên gọi khác vẫn thường xuyên được sử dụng cho những cộng đồng như vậy, đó là “xã hội quân bình” (egalitarian society).  Những cộng đồng này không hề có một tộc trường, hay tù trưởng nào, không có một hệ thống thứ bậc hay giai cấp lãnh đạo gì hết; họ chia sẻ mọi chứ họ có, và cùng hợp tác một cách hoàn toàn tự nhiên bên nhau để có thể sinh tồn; họ đưa ra những quyết định có thể ảnh hưởng đến cả cộng đồng thông qua những cuộc thảo luận kéo dài nhằm tìm đến một ý kiến thống nhất vừa ý tất cả mọi người. Một lý do quan trọng khiến họ có thể làm được thế, theo tôi, nằm ở lượng thời gian lớn đến đáng kinh ngạc mà họ đã dành để chơi đùa với tập thể khi họ còn nhỏ. Những kỹ năng và giá trị được thực tập trong những quãng thời gian chơi đùa đó chính xác là những thứ quan trọng, sống còn nhất với cuộc sống của một cộng đồng săn bắt-hái lượm. Ngày nay bạn có thể tồn tại mà không có những kỹ năng và giá trị ấy, nhưng, tôi nghĩ, sẽ khó lòng mà thấy hạnh phúc cho được.
Vậy là, chơi dạy cho chúng ta những kỹ năng xã hội mà thiếu nó, cuộc sống sẽ trở nên vô cùng khổ sở. Nhưng nó đồng thời cũng dạy cho ta cách kiềm chế các cảm xúc căng thẳng, tiêu cực như sợ hãi hay giận dữ. Các nhà khoa học chuyên nghiên cứu hành vi chơi đùa ở động vật tranh luận rằng một trong những mục đích chính của chơi đùa là để giúp những con non học cách có thể đối phó tốt về mặt cảm xúc (cũng như về thể chất) với những tình huống khẩn cấp. Động vật chưa trưởng thành ở rất nhiều giống loài đều cố tình, và liên tục, đặt bản thân mình vào những tình huống hơi có một chút nguy hiểm, hơi có một chút đáng sợ khi chơi đùa. Tùy thuộc vào mỗi loài, chúng có thể nhảy vọt lên trên không và khiến cho việc tiếp đất trở nên khó khăn, chạy dọc đến sát rìa của những mép đá, chuyền từ cành nọ sang cành kia đủ cao để nếu ngã có thể bị thương, hoặc chơi giả-vờ-đánh-nhau mà trong đó chúng lần lượt đặt mình vào tình thế nguy hiểm, để tự ép mình phải thoát ra khỏi đó cho bằng được.
Những trò ăn vạ có thể hiệu quả với những bậc cha mẹ, nhưng chúng không bao giờ có tác dụng gì với những bạn cùng chơi hết.

Trẻ em ở loài người, khi được thả cho tự do, cũng làm đúng như vậy, và luôn khiến cho các bà mẹ phải hết sức lo lắng. Chúng đang để cho bản thân chìm đắm trong sợ hãi, nhắm tới mức độ sợ hãi cao nhất mà mình có thể chịu được, và học cách để đối phó với nó. Những trò chơi như thế phải luôn được đứa trẻ tự-định-hướng, không bao giờ được cưỡng ép hay thậm chí được khuyến khích bởi một thế lực lãnh đạo bên ngoài. Bắt trẻ em phải trải nghiệm nỗi sợ khi chúng chưa sẵn sàng là rất độc ác, như khi các giáo viên thể dục bắt bọn trẻ phải leo dây lên tới tận xà nhà, hoặc đu mình từ một nấc thang này đến một nấc thang kia. Ở những trường hợp đó hậu quả có thể sẽ là hoảng loạn, hổ thẹn, và cả nhục nhã nữa, tất cả những thứ chỉ có tác dụng giúp làm suy giảm, thay vì tăng cường khả năng chống chịu với nỗi sợ trong tương lai ở các em.
Trẻ em cũng đồng thời trải nghiệm cả sự giận dữ trong khi chơi. Cơn tức giận có thể bùng phát lên vì một cú đẩy vô tình, hoặc cố ý, hay một lời trêu chọc, hay từ thất bại trong tranh cãi với một bạn chơi khác. Nhưng những đứa trẻ muốn tiếp tục được chơi sẽ phải học cách kiểm soát cơn giận đó, dùng nó một cách hợp lý để tỏ ra chủ động, nhưng không được phép được đột nhiên nổi đóa. Những trò ăn vạ có thể hiệu quả với những bậc cha mẹ, nhưng chúng không bao giờ có tác dụng gì với những bạn cùng chơi hết. Nhiều bằng chứng đã cho thấy rằng con non của các loài động vật khác cũng học cách điều khiển cơn giận và sự hung hăng của mình thông qua việc chơi đùa với tập thể.
Ở trường học, và ở những bối cảnh khác nơi người lớn có quyền điều hành kiểm soát, họ ra mọi quyết định cho con trẻ, và giải quyết hộ mọi vấn đề cho chúng. Trong khi chơi thì trẻ con tự mình ra lấy quyết định, và tự mình giải quyết những vấn đề của riêng chúng. Trong bối cảnh bị định-hướng-bởi-người-lớn, trẻ con luôn yếu ớt và dễ bị tổn thương. Khi chơi đùa, chúng mạnh mẽ và đầy quyền lực. Thế giới của những cuộc chơi chính là thế giới mô phỏng, luyện tập của đứa trẻ để sau này làm một người lớn. Chúng ta nghĩ đến chơi như một thứ gì đó trẻ ranh và ngớ ngẩn, nhưng với đứa trẻ, chơi chính là tập trải nghiệm cảm giác của một người lớn: được hoàn toàn tự chủ, và có thể tự chịu trách nhiệm. Khi chúng ta tước đoạt chơi đùa đi khỏi trẻ em, chúng ta cũng tước đoạt đi khỏi chúng khả năng tập luyện để làm người lớn, và thế là chúng ta tạo ra những con người sẽ trải qua cuộc sống này với một tâm lý phụ thuộc và luôn mang cảm giác của một nạn nhân, một cảm giác rằng sẽ luôn có một ai đó ngoài kia chỉ bảo cho họ biết phải làm gì, và giải quyết hộ cho họ mọi rắc rối. Đó chắc chắn không phải là một cách sống lành mạnh.
Các nhà nghiên cứu đã phát triển những cách để nuôi dạy chuột và khỉ con theo hướng để cho chúng trải nghiệm tất cả các tương tác xã hội khác, nhưng tuyệt đối không cho chúng chơi. Kết quả là những động vật không-được-chơi này bị thương tật về cảm xúc khi được kiểm tra với tư cách là những con thú lớn mới trưởng thành. Khi được đặt vào trong một môi trường hơi có chút đáng sợ, chúng đông cứng trong sợ hãi, và thất bại trong việc vượt qua nỗi sợ để tiếp tục khám phá khu vực, như cách mà một con khỉ hoặc chuột bình thường sẽ làm. Khi được đặt vào cùng một chuồng với một đồng bạn không quen thuộc, chúng run rẩy sợ hãi hoặc nổi đóa với những hành vi kích động không phù hợp, và cũng không hiệu quả; đôi lúc là cả hai biểu hiệu trên.
Trong những thập kỷ gần đây, chúng ta, với tư cách một xã hội, cũng đã tiến hành một thử nghiệm không-cho-chơi tương tự với những đứa trẻ của chúng ta. Trẻ em ngày nay không hoàn toàn bị ngăn cấm chơi đùa như những con chuột và khỉ trong thí nghiệm động vật kia, nhưng các em cũng đã bị cấm cản hơn rất nhiều so với những thế hệ trẻ em của hơn 60 năm trước; và hơn rất, rất nhiều trẻ em trong những cộng đồng săn bắt-hái lượm. Hậu quả, tôi nghĩ, là đã rõ. Ngăn cấm chơi là có hại cho trẻ nhỏ. Bên cạnh rất nhiều thứ khác, nó còn làm gia tăng căng thẳng, lo lắng, trầm cảm, tự sát, tính ích kỷ, và còn làm hao hụt dần tính sáng tạo. Đã đến lúc phải chấm dứt cái thử nghiệm này rồi.

Xuất bản ngày 18 tháng Chín, năm 2013
Chủ đề bài đăng: Tuổi thơ, Giáo dục, Xã hội


Người dịch: Nguyễn Tiến Đạt (sutucon)

Dịch xong lúc 01h39, ngày 27/12/2013

·         Chỉnh sửa lần 1 xong lúc 09h19, ngày 27/12/2013
·         Chỉnh sửa lần 2 xong lúc 15h58, ngày 27/12/2013
·         Chỉnh sửa lần 3 xong lúc 17h00, ngày 27/12/2013

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét