Thứ Sáu, 2 tháng 3, 2012

NGÔI NHÀ MỚI


Đến lúc chiều muộn ngày hôm đó, tin đồn đã lan ra khắp cả trường là Hiệu trưởng Trunchbull đã hồi tỉnh, và không nói không rằng ngay lập tức rời khỏi trường, mặt trắng bệch ra như một cái xác chết. 

Đến sáng hôm sau vẫn không thấy bà ta đến trường. Đến bữa trưa, thầy Trilby, Hiệu phó nhà trường, liền gọi điện đến nhà để hỏi thăm xem liệu bà ta có bị ốm không. Chẳng có ai trả lời điện thoại hết. 

Khi tan buổi học hôm đó, thầy Trilby quyết định sẽ tới tận nơi để hỏi thăm. Vậy là ông đi bộ tới ngôi nhà nơi Hiệu trưởng Trunchbull sống, ở rìa ngôi làng, một có ngôi nhà xây kiểu cổ bằng gạch đỏ rất đẹp, vẫn được gọi là Ngôi Nhà Đỏ, ẩn mình giữa khu rừng khuất sau những rặng đồi. 

Ông nhấn chuông cửa. Không có tiếng trả lời. 

Ông đập rầm rầm vô cửa. Vẫn không có tiếng trả lời. 

Rồi ông gọi to: “Có ai ở nhà không?”. Không hề có tiếng đáp lại. 

Ông liền thử vặn nắm cửa, và kinh ngạc phát hiện ra cánh cửa hoàn toàn không khóa. Ông bèn nhẹ nhàng bước vào. 

Bên trong ngôi nhà hoàn vắng tanh, chẳng có bóng người nào hết; vậy nhưng tất cả bàn ghế đồ đạc vẫn ở nguyên tại chỗ, không hề có chút xê dịch đi đâu cả. Thầy Trilby bước lên tầng hai, nơi có phòng ngủ chính. Cả trên này cũng không thấy có dấu hiệu gì khác thường cả, cho đến khi ông kéo thử những ngăn kéo ra và nhìn vào trong tủ để giày. Không hề thấy các loại quần, áo, vớ và giày dép các kiểu ở bất cứ đâu hết. Tất cả đều đã hoàn toàn biến mất. 

Bà ấy đã đột ngột bỏ nhà đi rồi, thầy Trilby tự nhủ; và rồi ông quay lại trường và thông báo với Ban Giám Hiệu nhà trường rằng bà Hiệu trưởng hiện thời đã mất tích. 

Sáng hôm sau, cô Honey nhận được một lá thư bảo đảm từ một luật sư địa phương, báo rằng chúc thư của cha cô, Bác sĩ Honey, vừa đột nhiên được tìm thấy. Tờ chúc thư cho thấy rằng kể từ khi cha cô qua đời, cô Honey đã trở thành người chủ hợp pháp của ngôi nhà nằm ở rìa ngôi làng, tức Ngôi Nhà Đỏ, mà cho tới gần đây vẫn còn bị chiếm giữ bởi bà Agatha Trunchbull. Chúc thư cũng tuyên bố là toàn bộ số tiền tiết kiệm của Bác sĩ Honey, mà may mắn thay vẫn còn nguyên vẹn trong tài khoản của ông ấy ở nhà băng, cũng đều được để lại cho cô Honey. Bức thư cũng lưu ý cô Honey rằng nếu có thể thì xin cô hãy liên hệ với văn phòng càng sớm càng tốt, để ông luật sư có thể nhanh chóng hoàn tất thủ tục chuyển số tiền và ngôi nhà về tên cô. 

Cô Honey làm đúng như vậy, và chỉ vài tuần sau cô đã được chuyển về sống trong Ngôi Nhà Đỏ, nơi cô đã lớn lên và may mắn thay, tất cả đồ đạc và tranh ảnh của gia đình cô vẫn còn nguyên ở đó. Kể từ đó, Matilda trở thành một vị khách luôn được chào đón tại Ngôi Nhà Đỏ sau mỗi giờ tan học; và một tình bạn thân thắm thiết bắt đầu hình thành giữa cô giáo và cô bé học trò nhỏ. 

Ở trường cũng đang có những sự thay đổi rất lớn. Ngay khi thông tin Hiệu trưởng Trunchbull đã hoàn toàn mất tích được xác nhận, thầy Tribly được hội đồng nhà trưởng chỉ định thay thế chỗ của bà ấy. Và sau đó Matilda lập tức được chuyển lên học trên khối Sáu, nơi cô Plimsoll, giáo viên chủ nhiệm, nhanh chóng nhận ra rằng đây quả là một đứa trẻ đặc biệt thông minh, hệt như những gì cô Honey đã quả quyết với cô. 

Vài tuần sau đó, vào một buổi chiều sau giờ học, Matilda lại tới dùng trà với cô Honey trong căn bếp của Ngôi Nhà Đỏ như mọi khi. Đột nhiên cô bé nói: “Có chuyện gì đó lạ lắm vừa xảy ra với em, cô Honey ạ.” 

“Chuyện gì vậy?” cô giáo hỏi. 

“Lúc sáng nay,” Matilda nói, “chỉ cho vui thôi, em thử đẩy đồ vật bằng mắt của mình, nhưng lại không tài nào làm được nữa. Chẳng hề có thứ gì chuyển động cả. Em thậm chí còn không thấy mắt mình nóng lên nữa. Sức mạnh đó đã biến mất rồi. Em nghĩ là em đã hoàn toàn mất khả năng đó rồi, cô Honey ạ.” 

Cô Honey cẩn thận phết bơ lên một miếng bánh mì nâu, rồi quết thêm một chút mứt dâu lên miếng bánh đó nữa. “Cô đã nghĩ rồi chuyện như thế sẽ xảy ra mà,” cô nói. 

“Thật ư? Tại sao ạ?” Matilda hỏi. 

“Ừ thì,” cô Honey đáp, “cũng chỉ là phỏng đoán thôi, nhưng cô nghĩ thế này: khi em ở trong lớp của cô, em gần như chẳng có gì để làm cả, chẳng có khó khăn hay thử thách nào để em nỗ lực tìm cách giải quyết hết. Trí não của em hẳn đã cảm thấy như muốn phát điên lên vì thất vọng. Trí lực của em hẳn đã bị dồn nén lại đến muốn sôi sục, đến như muốn vỡ tung hết cả ra trong đầu em. Cả một khối năng lượng khổng lồ cứ tích tụ lại mãi lại ở đó mà không biết phóng đi đâu, và bằng cách nào đó mà em đã có thể bắn nó ra bằng mắt của mình và làm cho những đồ vật trước mặt mình chuyển động được. Nhưng bây giờ thì mọi việc đã khác trước rồi. Em giờ đang học ở trên lớp khối Sáu, cạnh tranh với những đứa trẻ lớn gấp đôi tuổi em, và tất cả mọi thứ năng lượng trí óc của em giờ đều đã được dùng hết ở trên lớp cả rồi. Bộ não của em lần đầu tiên được đương đầu với những thử thách, và đấy là một điều rất tốt đấy. Tuy đó chỉ là một giả thuyết của cô thôi, nhưng cô nghĩ là nó cũng không sai đâu.” 

“Em mừng là chuyện đó đã xảy ra.” Matilda nói. “Em chẳng muốn mình là người làm phép lạ suốt đời đâu.” 

“Em đã làm được đủ phép lạ rồi,” cô Honey nói. “Đến giờ cô vẫn không thể tin được rằng em đã làm được tất cả những việc này cho cô đâu.” 

Matilda lúc này đang ngồi trên một chiếc ghế đẩu cao và thích thú thưởng thức món bánh phết mứt dâu của mình. Cô bé thật sự rất thích những buổi dùng trà như thế này với cô Honey. Cô bé cảm thấy thoải mái nhẹ nhàng khi có cô hiện diện bên cạnh, và cả hai nói chuyện với nhau về đủ mọi chuyện trên đời. 

“Cô có biết,” chợt cô bé nói, “là tim của một con chuột có thể đập đến hơn sáu trăm năm mươi nhịp một phút không?” 

“Thế ư? Cô không biết đấy,” cô Honey nói, mỉm cười. “Tuyệt thật đấy. Em đã đọc được điều đó ở đâu vậy?” 

“Trong một cuốn sách từ thư viện ạ.” Matilda nói. “Thế tức là tim nó đập nhanh đến mức không thể nghe thấy được từng tiếng một. Chắc nhịp tim của nó nghe phải nghe vù vù như tiếng đập cánh của một con ong ấy, cô nhỉ?” 

“Ừ, đúng vậy,” cô Honey nói. 

“Và cô có biết nhịp tim của một con nhím thì nhanh đến đâu không?” Matilda hỏi. 

“Không, em nói cho cô biết đi,” cô Honey mỉm cười, nói. 

“Nhịp tim của nó không nhanh bằng của một con chuột,” Matilda nói. “chỉ có ba trăm nhịp một phút thôi. Nhưng kể cả vậy thì cũng khó mà tin được một loài vật chậm chạp là thế mà lại có nhịp tim nhanh đến vậy, cô nhỉ?” 

“Ừ, cô cũng không tin được,” cô Honey đáp. “Em kể tiếp nữa đi.” 

“Một con ngựa,” Matilda nói, “thì lại có nhịp tim cực chậm, có mỗi bốn mươi nhịp một phút thôi.” 

Đứa trẻ này, cô Honey nghĩ, có vẻ như thích thú với tất cả mọi thứ trên đời này. Không ai có thể thấy chán khi nói chuyện với cô bé được. Mình thích nhất là điều đó. 

Hai người họ cứ ngồi đó nói chuyện như thế trong khoảng một tiếng đồng hồ, rồi khi chuông đồng hồ điểm sáu tiếng, Matilda chào tạm biệt cô Honey và bước trở về ngôi nhà của ba mẹ cô bé, cách Ngôi Nhà Đỏ của cô Honey khoảng tám phút đi bộ. Khi về tới cổng, cô bé để ý thấy có một chiếc xe hơi lớn màu đen đang đậu lù lù trước cửa nhà mình. Dù vậy, Matilda cũng không để tâm đến nó cho lắm. Vẫn thường xuyên có những chiếc xe lạ hoắc hay đến đậu trước cửa nhà ba cô. Nhưng khi bước vào nhà, đập vào mắt cô bé là cả một đống đồ đạc đang bày bừa hết sức lộn xộn khắp trong ngoài nhà, hệt như một bãi chiến trường. Cả ba và mẹ cô bé đều đang vội vã chạy qua chạy lại khắp nơi, cuống cuồng cuồng nhồi nhét các thể loại quần áo và đồ dùng cá nhân vào những cái vali và túi xách. 

“Có chuyện gì thế ạ?” cô bé kêu lên. “Chuyện gì đang xảy ra thế, ba?” 

“Chúng ta sắp sửa khởi hành,” ông Wormwood đáp mà đầu vẫn không ngẩng lên. “Chúng ta sẽ đến sân bay trong vòng nửa tiếng nữa, vậy nên tốt hơn hết là mày nên đi thu xếp đồ đạc đi. Anh mày ở trên kia đã xong rồi đấy. Đi thu xếp đồ đạc đi, mau lên!” 

“Khởi hành ấy ạ?” Matilda kêu lên. “Khởi hành đi đâu cơ?” 

“Tây Ban Nha,” ông bố đáp. “Ở đó khí hậu tốt hơn ở cái đất nước tệ hại này nhiều.” 

“Tây Ban Nha!” Matilda kêu lên. “Con không muốn đến Tây Ban Nha! Con thích sống ở đây, con thích đi học ở đây cơ!” 

“Ngậm mồm lại và đi làm những gì mà mày được bảo đi!” ông bố quát. “Không có mày thì tao cũng đã có đủ rắc rối lắm rồi!” 

“Nhưng ba à, …” Matilda nói. 

“Nín ngay!” ông bố quát to. “Chúng ta sẽ đi trong ba mươi phút nữa! Tao sẽ không để lỡ cái chuyến bay đó đâu!” 

“Nhưng chúng ta sẽ đi trong bao lâu hả ba?” cô bé kêu lên. “Bao giờ thì con được quay lại?” 

“Chúng ta sẽ không quay lại,” ông bố đáp. “Giờ thì biến đi! Tao đang bận lắm đây!” 

Matilda quay người lại và bước ra khỏi nhà. Vừa ra đến đường, cô bé lập tức lao thục mạng về phía trước. Cô bé chạy thẳng về hướng ngôi nhà của cô Honey, và tới được đó chỉ trong vòng không đầy có bốn phút. Matilda mở cổng và chạy thẳng vào nhà, và rồi bất ngờ cô bé nhìn thấy cô Honey đang đứng giữa luống hoa hồng, trong tay vẫn còn cầm một cây kéo làm vườn. Cô Honey nghe thấy tiếng cô bé chạy ầm ập đến liền ngừng tay, đứng dậy, quay người và bước ra khỏi luống hoa, vừa đúng lúc cô học trò nhỏ chạy tới. 

“Nào, nào,” cô nói, “có chuyện gì mà em phải chạy thục mạng thế?” 

Matilda đứng trước mặt cô, thở hồng hộc, hụt hơi vì chạy quá nhanh. Hai má cô bé đỏ rực hết cả lên. 

“Họ đang bỏ đi! ” cô bé kêu lên. “Tất cả họ tự dưng điên lên và chất hết tất cả đồ đạc vào trong vali và nói sắp sửa đi Tây Ban Nha, và họ đang sắp sửa rời đi trong vòng ba mươi phút nữa!” 

“Ai đang sắp sửa rời đi cơ?” cô Honey hỏi. 

“Ba mẹ em và cả anh Mike nữa, và họ nói em sẽ phải đi cùng với họ!” 

“Ý em là giống như đi nghỉ mát á?” cô Honey hỏi. 

“Không, đi mãi mãi!” cô bé kêu lên. “Ba em nói chúng em sẽ không bao giờ trở về nữa!” 

Một khoảnh khắc im lặng ngắn ngủi trôi qua, và rồi cô Honey nói: “Thực ra thì cô cũng không ngạc nhiên lắm vì chuyện này đâu.” 

“Ý cô là cô đã biết là bọn họ sẽ bỏ đi sao?” Matilda kêu lên. “Sao cô không nói gì với em cả?” 

“Không, ý cô không phải thế,” cô Honey nói. “Cô không biết là họ sẽ bỏ xứ này mà đi. Nhưng cái tin đó vẫn không có gì là đáng ngạc nhiên với cô cả.” 

“Tại sao ạ?” Matilda kêu lên. “Cô làm ơn nói cho em biết đi.” Cô bé vẫn còn đang chưa lấy lại được hơi sau chặng đường hộc tốc chạy vừa rồi, và sau cả cú sốc ban nãy nữa. 

“Bởi vì, Matilda ạ, ba em,” cô Honey nói, “trước giờ vẫn chuyên làm ăn với một bọn tội phạm. Tất cả mọi người trong làng đều biết điều đó. Cô đoán ông ấy là đầu mối chuyên mua lại những chiếc xe bị ăn cắp từ khắp các nơi trong cả nước. Ổng hẳn đã dính vào vụ này khá sâu đấy.” 

Matilda nghe đến đó mà miệng há hốc ra vì ngạc nhiên. 

Cô Honey nói tiếp: “Bọn họ mang những chiếc xe ăn cắp được tới xưởng xe của ba em, nơi ông ta sẽ thay biển số xe, sơn lại thân xe và chỉnh sửa thay đổi đủ thứ khác nữa. Và giờ hẳn có ai đó đã mách với ổng là cảnh sát đã để mắt đến những hành động của ổng, và thế là giờ ổng đang làm điều mà tất cả bọn tội phạm trong đường dây của ổng đều làm: chạy trốn đến Tây Ban Nha, nơi cảnh sát không thể làm gì ổng được nữa. Ông ta hẳn đã đều đặn gửi tiền tiết kiệm đến đó từ lâu, để chuẩn bị sẵn cho những tình huống như thế này đây.” 

Họ đang đứng trên bãi cỏ trước ngôi nhà xây bằng gạch màu đỏ tuyệt đẹp, với lớp gạch men phủ đã ngả màu vì thời gian và chiếc ống khói cao vút; và cô Honey vẫn còn cầm trên tay cây kéo làm vườn của mình. Đó là một buổi tối mùa hè rất ấm áp, đó đây còn có tiếng chim hót véo von. 

“Em không muốn phải đi với họ!” Matilda bỗng nhiên kêu to. “Em sẽ không đi đâu cả đâu!” 

“Cô e là em sẽ phải đi đó,” cô Honey nói. 

“Em muốn được sống ở đây với cô!” Matilda kêu lên. “Làm ơn hãy để cho em sống ở đây với cô đi, cô Honey!” 

“Cô cũng muốn được vậy lắm,” cô Honey nói, “nhưng cô e là chuyện đó khó có thể xảy ra được. Em không thể cứ vậy mà rời bỏ cha mẹ mình chỉ vì em muốn thế. Họ có quyền được mang em theo đến bất cứ đâu.” 

“Nhưng nếu họ đồng ý thì sao ạ?” Matilda kêu lên một cách háo hức. “Nếu họ nói đồng ý thì liệu em có thể đến sống chung với cô không? Cô sẽ cho em sống chung với cô chứ, cô Honey?” 

Cô Honey nhẹ nhàng nói: “Được chứ, thế thì còn gì bằng.” 

“Em nghĩ là họ sẽ đồng ý thật đó!” Matilda kêu lên. “Em thực sự nghĩ là họ sẽ đồng ý ngay! Họ thậm chí còn chẳng thèm để tâm xem em sẽ sống ở đâu nữa mà!” 

“Đừng vội kết luận vậy chứ,” cô Honey nói. 

“Chúng ta phải nhanh lên!” Matilda vội vã kêu to. “Họ đang sắp sửa rời đi bất cứ lúc nào! Mau lên nào cô!” cô bé kêu lên, tóm lấy cánh tay của cô Honey. “Xin hãy đi với em và nói chuyện với họ! Nhưng phải nhanh lên! Chúng ta sẽ phải chạy!” 

Thế là hai người họ chạy thẳng về phía con đường, Matilda chạy phăm phăm đằng trước, kéo lấy cổ tay của cô Honey; họ vội vã chạy dọc theo con đường vùng thôn quê, xuyên qua ngôi làng nhỏ và đến ngôi nhà nơi ba mẹ Matilda sống. Chiếc xe hơi đen vẫn đậu ở trước cửa, chỉ có điều là giờ nó đã bị lèn chặt đầy đồ đạc, và bốn cánh cửa xe đều đã được mở toang ra hết. Ông bà Wormwood cùng cậu con trai thì đang chạy qua chạy lại nhìn cứ như một bầy kiến, tay xách nách mang những chiếc vali và túi xách để chất thêm vào trong xe. Đúng lúc đó thì cô Honey và Matilda cũng vừa vặn chạy tới nơi. 

“Ba! Mẹ!” Matilda hét to, thở hổn hển vì hụt hơi. “Con không muốn đi Tây Ban Nha với mọi người đâu! Con muốn sống ở đây với cô Honey và cô ấy đã đồng ý rồi, nhưng con cần phải có cả sự đồng ý của ba mẹ nữa! Ba mẹ làm ơn hãy đồng ý đi! Đồng ý đi mà ba! Mẹ à, mẹ đồng ý đi!” 

Ông bố quay lại và nhìn cô Honey. “Cô là cái cô giáo đã từng một lần đến nhà chúng tôi rồi phải không?” Và rồi ổng lại quay lại với việc nhồi nhét một chiếc vali nữa vào trong xe. 

Bà vợ nói với ổng: “Cái này phải cho xuống dưới ghế sau thôi, ở trên này hết chỗ rồi.” 

“Tôi sẽ rất vui lòng được chăm sóc bé Matilda,” cô Honey nói. “Tôi sẽ chăm sóc em ấy rất cẩn thận, thưa ông Wormwood, và tôi sẽ chi trả tất cả các loại chi phí. Cô bé sẽ không làm tốn của ông bà một xu nào cả đâu. Nhưng đấy không phải là ý của tôi, mà là của bé Matilda. Và tôi sẽ không đồng ý nhận cô bé nếu không có sự chấp thuận của ông bà.” 

“Thôi nào, Harry,” bà mẹ nói, cố ấn thêm một cái vali to oành nữa vào băng ghế sau của xe. “Sao chúng ta không giao quách con bé cho cô ta đi, nếu đó là điều mà cô ấy muốn. Thế thì mình càng đỡ phải chăm sóc cho nó.” 

“Tôi đang vội lắm đây,” ông bố nói. “Tôi còn phải bắt kịp chuyến bay đó nữa. Nếu nó muốn ở lại thì cứ cho nó ở lại. Tôi chẳng có ý kiến gì hết.” 

Matilda nhảy choàng vào vòng tay của cô Honey và ôm chặt lấy cô, và cô Honey cũng ghì chặt lấy cô bé vào lòng; và rồi ông bố, bà mẹ cùng cậu anh trai của cô bé đều chui hết vào trong xe, và chiếc xe phóng vọt đi cùng một tiếng rít lớn của bốn chiếc chiếc lốp xe. Cậu anh trai vẫy tay chào tạm biệt cô em gái qua ô cửa sau, nhưng hai người kia thì thậm chí còn không ngoảnh đầu lại nhìn con gái mình một lần cuối nữa. Cô Honey vẫn đang ôm chặt cô bé trên tay mình, và không ai trong số họ nói một lời nào khi họ đứng đó và nhìn chiếc xe hơi lớn màu đen rẽ phải ở góc đường, rồi biến mất vào chốn xa xăm.

Thứ Năm, 1 tháng 3, 2012

PHÉP MÀU THỨ BA


Ngày hôm sau là ngày Thứ Năm. Ngày mà bất cứ ai trong lớp của cô Honey cũng biết là sẽ có tiết dạy của Hiệu trưởng Truchbull ngay sau bữa ăn trưa. 

Vào buổi sáng hôm đó cô Honey nói với cả lớp, “Có một vài em không thực sự thích thú gì lắm với lần cô Trunchbull tiếp quản lớp chúng ta tuần trước, vậy nên cô muốn lần này chúng ta hãy cùng hành xử khôn ngoan và cẩn thận hơn trước, được chứ? Hai tai em thế nào rồi, Eric?” 

“Bả đã kéo dãn tai em ra rồi,” Eric nói. “Mẹ em nói bà ấy đảm bảo là tai em giờ trông bự hơn hồi trước.” 

“Và Rupert,” cô Honey nói, “cô rất vui khi thấy em không rụng sợi tóc nào sau lần gặp cô Hiệu trưởng hôm Thứ Năm vừa rồi.” 

“Không, nhưng đầu em đã bị nhức suốt từ hôm đó đến giờ đấy cô ạ,” Rupert nói. 

“Và em, Nigel,” cô Honey nói, “làm ơn lần này đừng tỏ vẻ thông minh với cô Hiệu trưởng nữa nhé. Lần trước em có hơi hỗn với cô Trunchbull đó.” 

“Em ghét bà ta,” Nigel đáp. 

“Dù vậy thì cũng cố đừng thể hiện nó ra quá hiển nhiên như vậy,” cô Honey nói, “làm thế không được ích lợi gì đâu. Cô ấy có một sức mạnh rất kinh khủng đấy. Em không thấy các cơ bắp của cô ấy nổi cuồn cuộn cả lên như một bó thừng xoắn đấy sao?” 

“Ước gì bây giờ em là người lớn,” Nigel nói. “Em sẽ hạ đo ván bà ta.” 

“Cô không chắc về cái đó cho lắm,” cô Honey nói. “Chưa từng có ai đánh thắng nổi cô ấy đâu.” 

“Liệu chiều nay cô ấy sẽ kiểm tra bọn em những gì hả cô?” một cô bé hỏi. 

“Gần như chắc chắn sẽ là bảng cửu chương ba,” cô Honey nói. “Đó là nội dung các em đã được học tuần vừa rồi. Hãy chắc chắn là mình nhớ hết phần kiến thức này nhé.” 

Cuối cùng bữa ăn trưa cũng kết thúc. 

Sau bữa ăn trưa, cả lớp tập trung ổn định lại. Cô Honey đứng ở một góc của căn phòng. Tất cả lũ trẻ cùng yên lặng chờ đợi, căng thẳng. Và rồi, như một con quỷ khổng lồ xuất hiện từ Địa Ngục, mụ Trunchbull nện bước vào lớp trong lớp áo khoác vải và chiếc quần bó xanh. Mụ bước thẳng tới chỗ cái bình nước, nắm lấy tay cầm, nhấc nó lên và ghé mắt nhìn vào bên trong. 

“Ta rất mừng khi thấy,” bà ta nói, “không còn con quái vật nhớt nhát nào trong nước uống của ta nữa. Nếu chuyện đó mà còn lặp lại lần nữa, sẽ có một chuyện đặc biệt không dễ chịu chút nào xảy ra với từng thành viên trong cái lớp học này. Và trong đó có cả cô nữa đấy, cô Honey.” 

Cả lớp vẫn giữ im lặng một cách căng thẳng. Qua lần trước chúng đã học được một chút về con hổ cái này, và giờ không ai muốn mạo hiểm dây vào con mãnh thú này thêm một lần nữa. 

“Được lắm,” mụ Trunchbull đột ngột nói to. “Để ta xem chúng bay học bảng cửu chương ba tốt đến đâu nào. Hay nói cách khác, hãy cùng xem cô Honey của chúng bay dạy cái bảng cửu chương ba đó tệ đến đâu.” Mụ Trunchbull đang đứng ngay trước mặt cả lớp, chân mở rộng, tay chống nạnh; quắc mắt nhìn về phía cô Honey đang đứng nơi góc lớp. 

Matilda, ngồi yên lặng tại chỗ của mình nơi dãy bàn thứ hai, đang theo dõi mọi việc một cách rất chăm chú. 

“Mi!” mụ Trunchbull quát, chỉ một ngón tay to bằng cả một cái xúc xích vào một thằng nhóc có tên Wilfred. Cậu nhóc đang ngồi ngay phía ngoài cùng của dãy bàn đầu tiên. “Đứng lên, nhanh!” mụ quát. 

Wilfred lập tức đứng lên. 

“Đọc ngược cho ta bảng cửu chương ba, từ dưới lên trên!” mụ Trunchbull quát. 

“Đọc ngược ấy ạ?” Wilfred lắp bắp. “Nhưng em chưa được học đọc ngược bảng cửu chương bao giờ!” 

“A, đấy nhé!” mụ Trunchbull đắc thắng reo lên. “Cô Honey của chúng bay đã chẳng dạy được chúng bay cái gì hết nhá! Cô Honey, tại sao suốt cả tuần vừa qua cô không dạy cho bọn chúng thứ gì hết vậy?” 

“Không phải như thế đâu, thưa cô Hiệu trưởng,” cô Honey nói. “Tất cả các em ấy đều đã được học bảng cửu chương ba rồi mà. Nhưng tôi thấy chẳng có ích lợi gì trong việc dạy các em ấy đọc ngược bảng cửu chương cả. Chẳng có ích lợi trong việc dạy bất cứ thứ gì theo hướng ngược lại cả. Mục đích của đời người ta là tiến về phía trước, chứ đâu phải là bước ngược lại về phía sau. Tôi đánh liều hỏi cô một câu là có ai, kể cả ví dụ như chính cô đi, có thể lập tức đánh vần ngược được ngay dù chỉ một từ đơn giản như “wrong” [1] hay không?” 

“Cô đừng có hỗn láo với tôi, cô Honey!” mụ Trunchbull quát, rồi mụ quay lại về phía cậu nhóc Wilfred tội nghiệp. “Được thôi, nhóc,” mụ nói. “Vậy trả lời ta câu hỏi này xem. Ta có bảy trái táo, bảy trái cam và bảy trái chuối. Tổng cộng ta có tất cả bao nhiêu trái?! Tính mau lên! Trả lời ta ngay đi xem nào!” 

“Đấy là phép cộng mà!” Wilfred kêu lên. “Đó đâu phải là bảng cửu chương ba!” 

“Đúng là đồ não lợn!” mụ Trunchbull quát lên. “Mi là đồ đần độn, đồ đầu đất, đồ đã ngu mà còn không biết là mình ngu! Đó chính là bảng cửu chương ba đó! Ta có ba túi trái cây khác nhau, mỗi túi có bảy trái. Ba lần bảy là hai mốt. Có thế thôi mà mi cũng không ngẫm ra được sao, đồ óc heo? Ta sẽ cho mi thêm một cơ hội nữa! Ta có 8 trái dừa, 8 con khỉ, và 8 thằng ngốc óc heo giống như mi. Vậy tổng cộng ta có bao nhiêu? Trả lời mau lên!” 

Cậu nhóc Wilfred tội nghiệp bắt đầu trở nên luống cuống. “Cô… cô đợi em một chút! Tám trái dừa cộng tám con khỉ… là…” Cậu nhóc bắt đầu xòe những ngón tay ra để đếm. 

“Cái đồ không có óc!” mụ Trunchbull rít lên. “Đồ đần độn! Đây không phải là toán cộng! Đây là toán nhân! Câu trả lời là ba lần tám! Hay là tám lần ba nhỉ? Ba lần tám với tám lần ba khác gì nhau, hả? Mau trả lời ta đi, đồ não làm bằng đất, mau lên!” 

Lúc này thì thằng bé đã sợ đến rúm cả người lại rồi, còn trả lời cái gì được nữa. 

Thế rồi chỉ với hai sải bước, mụ Trunchbull đã đén đứng lù lù ngay bên cạnh cậu nhóc. Và bằng một ngón võ bất ngờ nào đó, chẳng biết là Judo hay là Karate, mụ khoèo một cái vào cẳng chân của Wilfred, khiến nó bắn tung lên khỏi mặt đất và lộn vòng vòng giữa không trung. Nhưng, chỉ mới lộn được có nửa vòng, thằng bé đã bị mụ Trunchbull tóm ngay lấy mắt cá chân; và thế là mụ cứ thế giữ nó treo mình lộn đầu xuống đất, lơ lửng giữa không trung, hệt như một con gà vừa bị làm lông treo lỏn lảnh tòn teng nơi cửa sổ một nhà hàng thịt. 

“Ba lần tám,” mụ Trunchbull nói, đu đưa thằng nhóc qua lại như một quả lắc đồng hồ, “ba lần tám không khác gì tám lần ba cả, và tám lần ba bằng hai mươi tư, rõ chưa? Nhắc lại cho ta mau!” 

Đúng lúc đó cậu nhóc Nigel, đang ngồi ở đầu phía bên kia của lớp học, đột nhiên nhảy dựng cả lên, ngón tay chỉ lên bảng một cách đầy kích động. Nó hét to: “Viên phấn! Viên phấn! Nhìn cái viên phấn mà xem! Nó đang tự chuyển động kìa!” 

Cái tiếng hét the thé của Nigel đầy kích động đến nỗi tất cả mọi người trong lớp, kể cả mụ Trunchbull, đều lập tức nhìn về phía chiếc bảng đen. Và chính thế, ở đó, một viên phấn còn mới toanh đang lượn lờ lơ lửng ngay sát mặt bảng đen. 

“Nó đang viết cái gì đó kìa!” Nigel hét lên. “Viên phấn đang viết cái gì đó kìa!” 

Chính thế, viên phấn đó đang viết nên những dòng chữ trên chiếc bảng đen. 

“Chuyện quái quỷ gì thế này?” mụ Trunchbull hét lên. Và rồi cả người mụ như nhũn ra khi chứng kiến tên riêng của mình đang từ từ xuất hiện trên tấm bảng, như đang được viết ra bởi một bàn tay vô hình nào đó. Mụ buông tay và thằng bé Wilfred té cái phịch xuống nền đất. Rồi mụ quát lên, không rõ là với ai: “Ai? Ai đang viết đấy?” 

Viên phấn vẫn tiếp tục lượn lờ, viết tiếp nên những dòng chữ trên tấm bảng đen. 

Tất cả mọi người đang có mặt trong lớp đều có thể nghe thấy tiếng những thở hổn hển vì sợ hãi của mụ Trunchbull. “Không!” mụ kêu lên. “Không thể thế được! Không thể là Magnus được!” 

Cô Honey đang đứng nơi góc lớp liền lập tức quay lại nhìn Matilda. Cô bé đang ngồi yên bên chiếc bàn của mình, với đầu ngẩng cao, môi hơi mím lại, đôi mắt lấp lánh như như hai vì sao sáng. 

Vì một lý do nào đó mà giờ tất cả lớp, không ai bảo ai, cùng chăm chăm nhìn vào mụ Trunchbull. Khuôn mặt bà ta giờ đây đã trở nên trắng bệch ra như một cái xác chết, cái miệng cứ liên tục há hốc ra rồi lại khép lại như một con cá ngão mắc cạn; phát ra những tiếng thở hổn hển vì sợ hãi. 

Rồi viên phấn cũng ngừng lại. Nó lơ lửng trên không một lúc, rồi bất ngờ rơi cái “Cạch!” xuống sàn nhà, gãy ra làm đôi. 

Cậu nhóc Wilfred, người trong lúc vừa rồi đã xoay sở trở lại được chỗ ngồi của mình, bỗng kêu to: “Cô Trunchbull xỉu rồi! Cô Trunchbull xỉu rồi mọi người ơi!” 

Đây mới là cái tin giật gân nhất từ trước đến giờ, và tất cả lớp gần như cùng nhảy bật ra khỏi ghế để nhìn cho thật rõ. Và đúng thế thật, ở ngay kia, mụ Hiệu trưởng khổng lồ đang nằm lăn kềnh ra giữa sàn lớp học, hoàn toàn bất tỉnh nhân sự. 

Cô Honey vội vã chạy tới và quỳ xuống bên con quái vật khổng lồ. “Cô ấy bị ngất rồi!” cô kêu lên thảng thốt. “Cả người cô ấy lạnh ngắt! Em nào đó mau ra ngoài và gọi cô trực phòng y tế vô đây, mau lên!” Lập tức, vài ba đứa nhóc phóng vọt ra khỏi phòng học. 

Nigel, người luôn luôn sẵn sàng hành động, lao đến bên bàn giáo viên và chụp lấy cái bình nước. “Ba em nói xối nước lạnh vào mặt là cách tốt nhất để đánh thức ai đó bị ngất,” cậu nhóc nói, và ngay lập tức ụp nguyên cả cái bình nước vô mặt của mụ Trunchbull. Không một ai, kể cả cô Honey, phản đối hành động đó. 

Còn về phần Matilda, cô bé vẫn ngồi yên tại chỗ ngồi của mình, trong lòng cảm thấy vui thích một cách kỳ lạ. Cô bé có cảm giác như mình vừa mới chạm tới một thứ gì đó gần như vượt ra ngoài cả thế giới này, nơi đỉnh cao nhất của thiên đường, nơi vì sao xa nhất trong vũ trụ. Cô bé hồi tưởng lại cái cảm giác vô cùng tuyệt vời khi năng lượng tích tụ lại phía sau đôi mắt mình, như một thứ dung dịch ấm áp chảy tràn khắp nơi trong não bộ của mình, và rồi đôi mắt của cô bé trở nên nóng rẫy lên, nóng hơn bao giờ hết; những cánh tay li ti phóng vọt ra khỏi tròng mắt cô bé, và rồi viên phấn bay lên và tự động viết nên những dòng chữ trên bảng. Cô bé cảm thấy như mình gần như chẳng có làm cái gì hết. Tất cả mọi thứ diễn ra đều thật tự nhiên, thật đơn giản. 

Bà y tá của ngôi trường xuất hiện, theo sau là năm giáo viên khác, hai nam ba nữ; và họ vội vã tiến vào phòng. 

“Lạy Chúa tôi, cuối cùng cũng có kẻ cho mụ ta nằm đo đất rồi!” một thầy giáo kêu to, nở một nụ cười sung sướng. “Xin chúc mừng, cô Honey!” 

“Ai đã đổ nước lên mặt bà ta vậy?” bà y tá hỏi. 

“Là cháu ạ!” Nigel tự hào nói. 

“Làm tốt lắm,” một thầy giáo khác nói. “Ta có nên đổ thêm chút nước nữa vô mặt mụ ta không?” 

“Thôi đi,” bà y tá nói, “hãy mau mau đưa bà ấy về phòng y tế thôi.” 

Phải cần đến tất cả năm thầy cô giáo và cả bà y tá nữa mới nhấc nổi người phụ nữ khổng lồ kia lên và chậm rãi dìu bà ta ra khỏi căn phòng học. 

Cô Honey quay lại nói với cả lớp: “Cô nghĩ tốt hơn hết bây giờ tất cả các em hãy ra sân chơi và thư giãn trong lúc đợi đến tiết học tiếp theo đi, được chứ?” Và rồi cô bước về phía tấm bảng và cẩn thận xóa hết những dòng chữ vừa được viết trên đó đi. 

Lũ trẻ bắt đầu ùa ra khỏi lớp. Matilda cũng dợm bước ra cùng các bạn, nhưng khi bước ngang qua chỗ cô Honey, cô bé dừng lại một chút, và đôi mắt lấp lánh của cô bé bắt gặp ánh mắt của cô Honey; và rồi cô Honey lao đến ôm choàng lấy cô học trò nhỏ, ghì chặt cô bé vào lòng và tặng cho bé mấy chiếc hôn vào hai bên má. 
___________________________

[1] có nghĩa là “sai lầm”